Pages

Wednesday, October 24, 2012

Nguồn gốc Chiến tranh Việt Nam

Lưu ý: Đây là một cuốn sách đã đăng kí tác quyền. Người dịch ra và đưa lên ở đây chỉ nhằm mục đích chia sẻ hạn chế trong nội bộ diễn đàn, theo tinh thần fair use. Vui lòng không truyền bá và phát hành rộng rãi.


ĐÔI DÒNG VỀ TÁC GIẢ VÀ CUỐN SÁCH

Fredrik Logevall là giáo sư dạy sử ở trường Đại học Cornell, New York, Hoa Kì. Ông là một tác giả có uy tín về chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Lạnh, đã từng xuất bản nhiều cuốn sách giá trị như Choosing War: The Lost Chance for Peace and the Escalation of War in Vietnam, America's Cold War: The Politics of Insecurity và The First Vietnam War: Colonial Conflict And Cold War Crisis. Cuốn The Origins of Vietnam War được xuất bản lần đầu tiên năm 2001, nghiên cứu về tình hình lịch sử và nguồn gốc của cuộc chiến tranh Việt Nam từ những năm 1954 đến 1964. Tại sao Hoa Kì lại kiên quyết theo đuổi một cuộc chiến ở Việt Nam? Liệu cuộc chiến này có thể tránh được hay không? Cuốn sách cung cấp một câu trả lời tương đối đầy đủ cho những câu hỏi như thế.
_________

CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG CUỐN SÁCH
NLF: National Front for the Liberation of Vietnam, Mặt trận dân tộc giải phóng Việt Nam
ARVN/ QLVNCH: Army of the Republic of Vietnam, Quân lực Việt Nam Cộng hoà (Nam Việt)
PAVN/ QDNDVN: People’s Army of Vietnam, Quân đội Nhân dân Việt Nam (Bắc Việt)
CIA: Central Intelligence Agency, Cục tình báo Trung ương Mỹ
DRV/ VNDCCH: Democratic Republic of Vietnam, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Bắc Việt)
RVN/ VNCH: Republic of Vietnam, Việt Nam Cộng hoà (Nam Việt)
FDR: Franklin D. Roosevelt
JFK: John F. Kennedy
LBJ: Lyndon B. Johnson
NSC: National Security Council, Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ
JCS: Joint Chiefs of Staff, Hội đồng Bộ trưởng
_________________________

                       Nguồn gốc Chiến tranh Việt Nam 


Vào lúc 2h sáng ngày 7 tháng 2 năm 1965, chỉ một khoảng thời gian ngắn sau khi kết thúc thỏa thuận ngưng bắn để đánh dấu dịp Tết Nguyên Đán, một đại đội du kích Việt Cộng đã tổ chức một cuộc tấn công vào một quân trại trực thăng được canh gác sơ sài của Mỹ. Tám người Mỹ đã bị giết, 126 người bị thương và 10 chiếc trực thăng bị phá hủy. Đây là một trong hàng tá cuộc tấn công vào nhiều mục tiêu khác nhau ở Nam Việt vào ngày này, và nó gây ra con số thương vong cao nhất trong tất các cuộc đụng độ đơn lẻ tính đến lúc bấy giờ. Tại Sài Gòn, tư vấn an ninh quốc gia của Mỹ là ông McGeorge Bundy, người chuẩn bị hoàn tất chuyến thăm Nam Việt 3 ngày, đã gọi cho Nhà Trắng bằng đường dây mật và đề nghị một kế hoạch ném bom tức thời nhằm trả đũa Bắc Việt.
Lúc Bundy gọi đến thì ở Washington vẫn còn là buổi chiều ngày 6 tháng Hai. Chỉ trong vòng vài giờ, tổng thống Lyndon Baines Johnson (LBJ) triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) và họ đã thông qua với số phiếu gần như tuyệt đối một nghị quyết về việc tấn công 4 mục tiêu định trước ở phía nam của Bắc Việt, sẽ được thực hiện bởi 132 máy bay Mỹ và 22 máy bay Nam Việt. Chính quyền Nam Việt không hề được tham vấn về quyết định này. Sự căng thẳng trong cảm xúc của Johnson có thể được thấy qua hành động của ông này trong những giờ sau đó. Ông ta lên giường ngủ vào lúc nửa đêm nhưng lại thức dậy nói điện thoại với Cyrus Vance của Bộ Quốc phòng, có lẽ để hỏi kết quả của cuộc không kích, vào lúc 3:40, 4:10, và 5:10 vào buổi sáng, cuối cùng thức hẳn vào lúc 6:45.
Đó không phải là cuộc tấn công đầu tiên của quân đội Mỹ vào Bắc Việt. Sáu tháng trước, sau một cuộc đụng độ giữa tàu Mỹ và Bắc Việt ở vịnh Bắc Bộ, LBJ cũng đã hạ lệnh cuộc tấn công trả đũa một lần. Tuy nhiên, lần này cuộc không kích không phải là chỉ để trả đũa một hành động cụ thể nào. Vài tuần trước khi McGeorge Bundy thăm Nam Việt, các quan chức Mỹ đã quyết định leo thang chiến tranh ở Việt Nam, gia tăng cấp kì sự hiện diện của Mỹ ỏ Việt Nam trong nỗ lực đánh bại Việt Cộng và kết thúc cuộc bạo loạn. Một cách ngắn gọn nhất, họ đã chọn gánh lấy cuộc chiến thay cho đồng minh Nam Việt (mặc dù Nam Việt vẫn đóng vai trò lớn trong cuộc chiến), và họ đã bắt đầu tháng Hai tìm kiếm một cơ hội để bắt đầu một chính sách mới. Có thể nói, Pleiku chỉ là một cái cớ chứ không phải là nguyên nhân.
Do đó, ngày 10 tháng Hai LBJ đã chỉ thị một cuộc tấn công trả đũa lớn khác, lần này nhằm trả lời cho cuộc tấn công của Việt Cộng vào trại lính Mỹ ở Qui Nhơn, 75 dặm về phía Đông của Pleiku trên bờ biển miền Trung (lính du kích đã đặt một trái bom 100 pounds dưới một tòa nhà, và vụ nổ sau đó đã gây ra cái chết của 23 quân nhân Mỹ). Ba ngày sau đó, chính quyền chính thức đồng ý bắt đầu một chiến dịch ném bom thường xuyên và kéo dài nhắm vào Bắc Việt và cả những vùng bị Việt Cộng chiếm giữ ở Nam Việt. Vào ngày 19, máy bay Mỹ bắt đầu ném bom vào các vùng bị chiếm ở Nam Việt. Máy bay Mỹ ném bom vào các vùng của tỉnh Bình Định, cuộc không kích đầu tiên mà không có sự hiện diện của không quân Nam Việt. Cuộc tấn công được thực hiện bởi hàng lớp F-100 và B-57 được kéo dài trong một tuần và sau đó mở rộng ra các mục tiêu khác ở miền Nam. Ngày 26, Nhà Trắng chấp thuận yêu cầu của Tướng William Westmoreland, chỉ huy của lực lượng Mỹ trong chiến tranh, về việc tăng cường thêm 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ đến canh gác căn cứ không quân Đà Nẵng, cũng là quân đoàn bộ binh đầu tiên của Mỹ xuất hiện ở chiến trường Việt Nam. Quyết định này được thông qua sau một cuộc đàm thoại vắn tắt, bỏ qua sự phản đối của Lãnh sự quán Sài Gòn là Maxwell Taylor; và cả Quốc hội Mỹ lẫn lãnh đạo Nam Việt đều không hề được tham vấn trước. Vào ngày 2 tháng Ba, 6 ngày trước khi các đội quân lính thủy đánh bộ đổ bộ, hơn một trăm máy bay Mỹ ném bom các mục tiêu ở Bắc Việt. Đây là cuộc ném bom đầu tiên không nhằm trả đũa bất cứ điều gì, và nó đánh dấu sự bắt đầu của Chiến dịch Rolling Thunder.
Nó cũng đánh dấu một bước ngoặt, đưa cuộc chiến tranh Việt Nam thành một cuộc chiến tranh lớn. Mức độ chiến tranh tăng đáng kể, và khả năng cho một cuộc thương thảo sớm nhằm đưa đến một cuộc dàn xếp thỏa thuận giảm hẳn đi. Vào các tháng mùa xuân và mùa hè, khi các đội quân bộ Mỹ vào Việt Nam, chính quyền Hà Nội cũng bắt đầu tăng cường thâm nhập người và khí tài vào miền Nam. Đến cuối năm 1965, 180,000 lính Mỹ đã có mặt ở Nam Việt, và con số này còn tiếp tục tăng đến năm 1968 khi nó đạt đến con số hơn nửa triệu lính. Hà Nội đáp trả mỗi động thái leo thang của Mỹ bằng một hành động của họ. Tính đến khi một thỏa thuận được kí kết, tức là đầu năm 1973, với những điều khoản y hệt như nếu thỏa thuận được kí những năm 1964, 1965 hay 1969, 58,000 người Mỹ và từ 3 đến 4 triệu người Việt đã tử vong, và nhiều vùng của Việt Nam và hàng xóm Lào và Campuchia biến thành hoang tàn.
Giải thích về nguồn gốc của chiến tranh Việt Nam là một câu hỏi đã đánh thức nhiều nhà học giả, nhà báo và tác gia kể từ khi cuộc chiến vừa bắt đầu. Một số thì tán thành với lí luận mà các quan chức Mỹ diễn giải khi đó: Washington chiến đấu để bảo vệ một đồng minh đang hứng chịu tấn công từ bên ngoài, và một cuộc chiến lớn xảy ra vì Hà Nội đã không chịu từ bỏ tham vọng chiếm lấy miền Nam bằng vũ lực. Những người khác lại nhấn mạnh vai trò của sự quan tâm chiến lược tầm cao hơn của Mỹ, cụ thể là những lo ngại uy tín của Mỹ sẽ ăn một cú trời giáng nếu Việt Nam bị “mất” – các đồng minh của Mỹ, do đó, sẽ không dựa vào sự che chở của Mỹ nữa, và các chính quyền cộng sản sẽ mạnh bạo thách thức quyền lực của Mỹ trên toàn cầu. Cách giải thích về “uy tín” này được nhiều cựu quan chức Mỹ tán thành, những người này thường kết hợp cách giải thích đấy với lập luận “giúp đỡ một người bạn” để giải thích cho việc tham gia vào chiến trường Việt Nam.
Những lời giải thích của các quan chức – và bán quan chức – này đã không làm một số tác gia hài lòng; những nguời này lưu tâm đến những vấn đề khác hơn. Đối với một số nguời, chìa khóa để giải mã chiến tranh Việt Nam không nằm ở Việt Nam hay hệ thống quốc tế, mà nằm ngay trong lòng nuớc Mỹ. Hệ quả của việc “để mất Trung Quốc” và sức ép của nó làm phe Dân chủ phải luôn tỏ ra “rắn” với phe Cộng sản; hệ quả còn lưu lại của chủ nghĩa McCarthy (những “cuộc săn phù thủy” hiện đại) và sự sợ hãi nó thổi vào xuơng sống của những nhà cầm quyền Mỹ; kết quả mạnh mẽ của cuộc khảo sát chiến tranh lạnh trong dân chúng Mỹ, điều dẫn đến gần như tất cả các giọng nói có ảnh huởng trong xã hội Mỹ ủng hộ một sự tham gia vào miền Nam Việt Nam – tất cả những lập luận trên đều đuợc dẫn ra để lí giải cho quyết định chiến tranh. Một số nguời nhấn mạnh đến những “nguyên nhân Mỹ” tập trung vào những lí do dài hạn, vô tư lợi và có hệ thống; những nguời khác lại nhấn mạnh vào những lí do ngắn hạn, tư lợi và chắp vá. Một số chỉ ra rằng những nguời có trách nhiệm cuối cùng, những nguời hình thành những lựa chọn cho những nhà quyết định chính sách và điều khiển những lựa chọn ngoại giao là cả bộ máy ngoại giao ở Washington; số khác lại gán trách nhiệm hàng đầu cho tổng thống và những người thân cận nhất với ông ta.
Những nguời khác vẫn đưa ra những lời diễn giải nhấn mạnh vai trò của những yêu cầu từ nền kinh tế Mỹ. Những diễn giải phức tạp nhất về mô hình chủ nghĩa thực dân mới thì tránh một sự quyết định “thô” từ nền kinh tế trong phân tích của họ. Họ biết rằng chỉ riêng Việt Nam thì không có giá trị kinh tế mấy đối với Mỹ và, thay vào đó, lập luận rộng hơn: những chính trị gia, như một tác gia đã nói, tìm cách “tạo ra một cái khung tư bản chủ nghĩa cho thế giới từ mớ hỗn độn sau Thế chiến thứ 2 và tàn tích của hệ thống thực dân. Việt Nam trở nên quan trọng bởi vì cuộc cách mạng ở đấy – một cuộc cách mạng yêu nuớc, thiên tả - đe dọa hệ thống tư bản toàn cầu này. Nếu cuộc cách mạng này trở nên thành công, những cuộc cách mạng khác trên thế giới sẽ đuợc tiếp lửa thêm, do đó cần phải chặn đứng cuộc cách mạng này.
Dù cho những lời giải thích ở trên có khác nhau như thế nào, chúng vẫn có một điểm tuơng đồng: gần như tất cả đều căn bản xoay quanh vai trò của Mỹ trong việc giải thích sự tiến triển trong 2 thập kỉ và dẫn đến chếin tranh. Trên một phuơng diện nào đó, quyển sách này cũng không khác hơn. Bất cứ lịch sử chiến tranh đúng đắn nào cũng phải tập trung vào Mỹ đến một mức độ nhất định – theo như những nhà quan sát trên thế giới hiểu, sự leo thang hay xuống thang chiến tranh phụ thuộc rất lớn vào những quyết định mà Washington đưa ra. Tuy nhiên, tôi muốn đồng thời đặt việc ra quyết định của Mỹ vào tình hình chung của thế giới. Nhằm đạt đuợc sự thấu hiểu đầy đủ nhất về nguồn gốc chiến tranh Việt Nam, một điều rất quan trọng phải làm là mang những đối trọng ngoại giao của Mỹ lên bàn cân, nhằm đánh giá cách tiếp cận vấn đề Việt Nam của những phe này và sự ảnh huởng – hoặc không ảnh huởng – của họ lên cách suy nghĩ của Washington. Điều này bao gồm không chỉ những nhà lãnh đạo Việt Nam, cả nam và bắc, mà cả những quan chức trong những thủ đô lớn trên thế giới, ở Matxcơva, Bắc Kinh, Paris, London, Ottawa và Tokyo. Chỉ bằng cách đặt chính sách của Mỹ vào một tình huống rộng hơn như thế, chúng ta mới mong hiểu đuợc nguồn và hậu quả của những quyết định của quan chức Mỹ, những lựa chọn họ phải đối mặt, những lựa chọn thay thế mà họ có họăc không có. Sử dụng lăng kính rộng hơn này cũng quan trọng nếu chúng ta muốn hiểu vì sao ngoại giao không thể ngăn một cuộc chiến quy mô nổ ra.
Hơn thế nữa, bây giờ một cách tiếp cận quốc tế với câu hỏi cũng khả dĩ hơn là so với truớc đây, do sự công bố những thông tin quan trọng từ những nguồn lưu trữ trên toàn thế giới, cũng như việc phân loại hàng trăm giờ đối thoại trong Nhà Trắng, từ những năm của Kennedy và Johnson. Nói cho ngắn gọn, bây giờ là đúng lúc để có một cái nhìn tuơi mới về sự hình thành của một thảm kịch: chiến tranh Việt Nam. Và bởi vì nguồn gốc chiến tranh rất sâu xa, chúng ta cần phải bắt đầu sớm hơn, khi mà một thế lực phuơng Tây khác đang tìm cách áp đặt ý muốn của nó lên Việt Nam.

SỰ XÂM LĂNG CỦA NGƯỜI PHÁP
Người Việt Nam đã chiến đấu chống lại những kẻ ngoại xâm trong phần lớn lịch sử của họ. Kẻ thù truyền thống của họ là người Trung Quốc, những người đã từng đô hộ Việt Nam trong hơn một ngàn năm. Để đáp lại, người Việt Nam đã phát triển một tinh thần chiến đấu và niềm tự hào dân tộc cao độ. Đến thế kỉ 15, sau khi giành lại quyền tự trị từ Trung Quốc, người Việt Nam bắt đầu tiến về phương Nam, để rồi cuối cùng giành lấy chủ quyền vùng đồng bằng Mekong màu mỡ, vùng đất từng một thời thuộc Campuchia. Đến 1802, với sự thành lập của nhà Nguyễn, họ đã chiếm lấy toàn bộ vùng lãnh thổ hiện nay của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong những thập kỉ sau đó, Việt Nam đã bị xé nát bởi những đấu tranh giành quyền lực giữa các vua chúa trong nước. Trong một cuộc đối đầu, một nhà lãnh đạo phe phái nằm ở phương Nam đã thống nhất đất nước với sự giúp đỡ của lính đánh thuê Pháp. Sự dựa dẫm vào Pháp của ông ta đã làm cho sự hiện diện của Pháp trong nước ngày một nhiều hơn. Năm 1850, lấy cớ bảo vệ những người Công giáo Việt Nam (những nhà truyền giáo Pháp đã đưa Công giáo vào Việt Nam hàng thế kỉ trước), người Pháp bắt đầu công cuộc xâm lược đất nước này. Đến năm 1884, Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp.
Chính quyền Paris cũng đã thiết lập chủ quyền trên các quốc gia lân cận là Lào và Campuchia, và đến cuối thế kỉ thì cả 3 chính thức trở thành Liên hiệp Pháp – Đông Dương, được điều khiển bởi một vị tướng-chỉ huy chỉ định bởi Pháp. Sau 1893, Pháp Đông Dương bao gồm 5 đơn vị hành chính: Nam Kì, một thuộc địa ở miền Nam Việt Nam, và 4 vùng bảo hộ ở Campuchia, Lào, An Nam (Trung Kì) và Bắc Kì.
Có nhiều mục tiêu khác nhau ảnh hưởng đến chính sách thực dân của Pháp ở Đông Dương. Một vài quý tộc thời đó cho rằng những thế lực Âu Châu khác, bao gồm ngay cả Vương quốc Bỉ nhỏ bé, cũng đang tiến nhanh hơn Pháp trên toàn thế giới trong vấn đề thuộc địa, và rằng rất cần thiết phải làm một điều gì đó để sức mạnh và niềm kiêu hãnh của Pháp không tụt dốc thêm nữa. Cụ thể hơn, việc chiến được Đông Dương sẽ cho phép Pháp cạnh tranh với Vương quốc Anh, quốc gia đã lập nên một đế chế thuộc địa rộng lớn ở châu Á, trải từ Ấn Độ đến nửa đông New Guinea. Quân đội Pháp, những kẻ đã bị bẽ mặt bởi thất bại của Pháp dưới tay Prussia năm 1870, không từ chối cơ hội chữa lành lòng tự hào đã bị tổn thương của họ bằng một công cuộc mới ở nước ngoài, trong khi các nhà băng và công xưởng tìm cách bóc lột nguồn tài nguyên tự nhiên của Đông Dương và mở ra một thị trường mới cho hàng hóa Pháp. Đối với nhiều quan chức chính phủ, những mục đích này củng cố lẫn nhau và chỉ càng chứng minh thêm cho hành động can thiệp.
Chính sách này không phải là không bị chỉ trích ở Pháp. Những nhà nhân đạo tranh luận rằng một chính sách đế chế sẽ mang lại nhiều đau khổ và ít lợi ít cho người Đông Dương, trong khi những đối thủ khác thì cho rằng tài nguyên quốc gia (của Pháp) đang bị rút cạn cho những phần thưởng đáng nghi ngờ; những người này cho rằng tốt hơn hết là nên ưu tiên cho việc củng cố vị thế của Pháp ở châu Âu.Tuy nhiên, dư luận chính ở Pháp vẫn ủng hộ cho việc đầu tư vào Đông Dương, một phần bởi vì những nhà lãnh đạo đã cho thấy tài thuyết phục dân chúng bằng việc nhấn mạnh vào khía cạnh nhân đạo của chủ nghĩa thực dân. Đó là cái vẫn thường được gọi bằng mỹ từ “khai hóa” – trách nhiệm của những con người tiên tiến trên thế giới phải mang lại những lợi ích của nền văn minh Tây phương đến cho những người “man di” ở châu Á và châu Phi. Cái “trách nhiệm của người da trắng”, như Rudyard Kipling đã gọi. Từ đó, họ lại tranh luận rằng Pháp không chỉ mang đến sự phát triển kinh tế mà còn tạo ra một xã hội hiện đại dựa trên chính quyền cộng hòa, luật pháp và tự do cá nhân đến cho Đông Dương.
Tất nhiên, việc Pháp tuyên bố sứ mạng khai hóa của họ là một chuyện, còn việc họ làm nó như thế nào lại là một chuyện khác. Những người Đông Dương nên được khuyến khích theo những giá trị và định chế nào của người Pháp? Họ có cần được giữ lại bản sắc dân tộc đặc trưng của họ hay không? Những người châu Á có nhất thiết phải đi lặp lại con đường phát triển công nghiệp và dân chủ hiện đang thịnh hành thời bấy giờ ở Âu châu hay không? Hay là những khác biệt giữa Đông và Tây là quá lớn để có thể vượt qua?
Chẳng bao lâu sau, sự mâu thuẫn giữa mục tiêu khai công khai – khai hóa – và mục tiêu thực dụng hơn – bóc lột tài nguyên thuộc địa cho sự phát triển của mẫu quốc – trở nên rõ ràng. Người Pháp đã quyết tâm biến Đông Dương thành một thị trường tiêu thụ những sản phẩm sản xuất bởi các công xưởng của họ, do đó họ tìm cách ngăn cản sự ra đời của một nền công nghiệp thực thụ và một phân khúc thương mại có thể cạnh tranh với các mặt hàng nhập khẩu của Pháp. Họ cũng thờ ơ trong việc khuyến khích một thể chế chính trị có thể đại diện cho nguyện vọng của những người Đông Dương. Lí do rất rõ ràng: người Pháp đã quá rành rằng sự thành lập của một chính phủ hợp pháp, phổ thông sẽ dẫn đến sức ép cho những quyền tự chủ lớn hơn và cuối cùng là sự khôi phục tự chủ. Ngay từ đầu, chính sách thuộc địa của Pháp đã là hai mặt, và một mục tiêu chính trị và xã hội rõ ràng ở Đông Dương chưa bao giờ được biến thành hiện thực.
Lí do vì sao người Pháp lại chia Việt Nam ra 3 vùng không thực sự rõ ràng. Tất nhiên, một phần là do chiến thuật “chia để trị” của thực dân, và phần khác là do các quan chức hi vọng rằng chia ra thì việc quản lí sẽ dễ dàng hơn. Dù lí do là gì, thì quyết định này cũng đã định hình tương lai cai trị của Pháp ở vùng này, và cuối cùng sẽ có một ảnh hưởng to lớn đến Chiến tranh Việt Nam. Ở Bắc Kì và An Nam, người Pháp muốn có một sự cai trị gián tiếp thông qua bộ máy cai trị của nhà Nguyễn như là tầng lớp trung gian giữa Pháp và người bản địa. Sự điều khiển này càng ngày càng tập trung và độc đoán hơn, nhưng cuối cùng An Nam và Bắc Kì vẫn luôn thuộc vùng “ngoại biên” với bộ máy cai trị của Pháp. Do nghèo tài nguyên tự nhiên, hai vùng bảo hộ này ít được quan tâm hơn và ít bị nền kinh tế Pháp xâm nhập.
Ngược lại, ở Nam kì, người Pháp tự lập nên cấu trúc chính quyền của họ và cai trị trực tiếp – những người Việt Nam phục vụ cho hệ thống này phải theo sát luật pháp của Pháp. Thuộc địa này cũng chịu sự bóc lột kinh tế và thay đổi văn hóa sâu sắc. Với nhiều đất nông nghiệp hơn Bắc Kì và Trung Kì, Nam Kì trở thành điểm đến của người Pháp nhập cư vào Việt Nam. Nhiều người lập nghiệp ở vùng đồng bằng Mekong trù phú, và chẳng bao lâu sau những đầm lầy ở vùng đồng bằng được rút cạn và biến thành đất nông nghiệp. Sài Gòn, thủ đô và trung tâm thương mại của thuộc địa, được biết đến như là “Paris của Phương Đông”. Dọc theo biên giới với Campuchia, những đồn điền cao su được thành lập. Nam Kì trở thành mảnh đất lợi nhuận nhất, quan trọng nhất của đế quốc Pháp ở Đông Nam Á.
Một kết quả của việc phát triển này là sự ra đời của một tầng lớp tư sản Việt Nam giàu có tập trung ở Sài Gòn, với tài sản có được từ thương mại và địa chủ ruộng đất. Nhiều người thuộc tầng lớp này được giáo dục từ những ngôi trường được Pháp xây. Thông thường thì những người này ngưỡng mộ văn hóa Pháp, ăn thức ăn của người Pháp, mặc quần áo của người Pháp. Mặc dù không chống lại sự tăng cường ảnh hưởng chính trị và kinh tế của người Pháp, họ chỉ được làm như thế trong phạm vi giới hạn của hệ thống thuộc địa Pháp. Tuy nhiên, họ thường bị xem thường bởi chính những quan thầy này, và nhiều người còn căm ghét sự thống trị thuộc địa của người Tây phương. Kết quả, như William J. Duiker đã lưu ý, là một sự pha trộn giữa sự yêu mẫu quốc (Pháp) và bản năng bài ngoại, gây ra một sự dùng dằng về “lợi ích” của sự cai trị của Pháp.
Tình thế này ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của phong trào yêu nước Việt Nam, vốn được ra đời từ những trí thức Việt Nam trong một phần tư đầu của thế kỉ 20. Nhóm những người “yêu mẫu quốc” hơn thì chủ trương thay đổi bất bạo động và tập trung ở Nam Kì. Ví dụ như Đảng Hiến pháp (Constitutionalist Party), được thành lập bởi một nhóm nhỏ những trí thức Pháp ở Sài Gòn, nói lên mối quan tâm của tầng lớp thượng lưu người Việt trong việc cải cách chính sách thuộc địa mà không loại người Pháp ra. Việt Nam, theo những người này, vẫn sẽ nằm trong Liên hiệp Pháp. Trong những năm 1920 đảng Hiến pháp gây áp lực cho những cải cách chính trị và kinh tế khiêm tốn, nhưng chỉ được những câu trả lời lạnh lùng. Đến đầu những nằm 1930, đảng này biến mất nhanh chóng.
Sự thất bại của những nỗ lực cải cách ôn hòa đã hối thúc những phương pháp tiếp cận “cách mạng” hơn, đặc biệt là ở Bắc Kì và Trung Kì. Ở Hà Nội và Huế, và những vùng quận huyện rải rác khắp Việt Nam, phong trào chống thực dân đã cho ra đời những tổ chức chính trị bí mật nhằm mục đích trục xuất người pháp và giành lại quyền tự chủ dân tộc. Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDD) là một trong những nhóm quan trọng nhất trong số này, và đến năm 1929 nó đã có khoảng 1,500 thành viên, đa số tổ chức thành những nhóm nhỏ ở đồng bằng sông Hồng. Thành lập theo mô hình của đảng Quốc dân của Tôn Dật Tiên ở Trung Quốc, VNQDD xem cách mạng vũ trang là biện pháp duy nhất để giành lại độc lập cho Việt Nam, và đến 1930 cố gắng hâm nóng một cuộc nổi loạn bởi những người Việt phục vụ trong quân đội Pháp. Nỗ lực này đã thất bại, làm cho VNQDD không thể hoạt động công khai được nữa.

HỒ CHÍ MINH
Dưới môi trường này, Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP) đã ra đời. Chủ nghĩa Mác đã được một số người Việt yêu nước học ở Paris theo từ trong và sau thế chiến thứ II. Họ ít quan tâm đến khía cạnh đại chuyển biến xã hội (social millenarianism) của nó, thay vào đó, họ quan tâm đến thông điệp chống thực dân, lời hứa giải phóng khỏi ách thống trị của châu Âu cho tất cả những người dân thuộc địa. Đó là trường hợp của người thành lập ICP, Hồ Chí Minh. Sinh ra dưới tên Nguyễn Sinh Cung vào năm 1890, Hồ Chí Minh đã sớm căm ghét chế độ thực dân Pháp, và ông lập lời thề cống hiến cuộc đời mình cho sứ mệnh cao cả là giành lại nước Việt Nam cho người Việt Nam. Từ những năm 20 tuổi ông đã rời Việt Nam, đánh dấu sự bắt đầu của một cuộc lưu vong kéo dài gần 30 năm.

CHIẾN TRANH VIỆT PHÁP
Chiến tranh nổ ra ở Việt Nam vào tháng 11-1946. Nó xảy ra vào dịp Pháp tuyên bố siết chặt luật lệ chống lại những buôn lậu người Trung Quốc mà người Việt chứa chấp. Sau hai ngày nổ súng giữa lực lượng Pháp và Việt Minh ở cảng Hải Phòng và Hà Nội, Hồ Chí Minh và các cộng sự rút lên vùng đồi núi, thông báo rằng họ sẽ chiến đấu cho sự độc lập và thống nhất của Việt Nam cho đến khi cả hai mục tiêu được hoàn thành. Người Pháp lấp mọi chỗ trống của quan chức Việt Nam và đặt ra một cơ quan quản trị đặc biệt cho dân tộc thiểu số Mọi lạc hậu và nghèo đói ở vùng đồi phía bắc An Nam, giáp với Trung Kì, chia cắt vùng này (Nam Kì) với phần còn lại của quốc gia. Vào ngày 19 tháng 12, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chỉ huy của lực lượng Việt Minh, ra lệnh tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.

Lực lượng Việt Minh có ba lợi thế với kinh nghiệm chiến đấu có được từ giai đoạn cuối của đô hộ Nhật Bản, viện trợ thỉnh thoảng của Mao Trạch Đông từ Trung Quốc, và việc hoạt động trong lòng địch với sự giúp đỡ của quần chúng. Nhanh chóng, người Pháp gặp nhiều khó khăn trong việc đánh bại họ bằng phương pháp quân đội truyền thống. Với việc người Pháp thiếu một loạt những sự chuyển giao chính quyền và luật pháp thực sự từ chính quyền Việt Nam, hy vọng cho hòa bình sớm là rất ít, và Paris vẫn không sẵn sàng cho phép nhiều hơn một sự độc lập nửa vời với không có một tí yếu tố tự trị nào. Một chính quyền tự trị khiêm tốn với sự cộng tác với Pháp, trên điều khoản do Pháp đặt ra, là chính quyền duy nhất được phép thành lập.
Tuy nhiên, người Pháp hiểu rằng việc tạo ra một chính phủ bù nhìn như thế là rất cần thiết. Theo đó, vào tháng 6 năm 1948 chính quyền trung ương đầu tiên của Việt Nam, chống lại chính phủ của Hồ Chí Minh được thành lập. Có thể nói là một tác phẩm của Pháp, chính quyền này không hề có tí quyền lực nào, nhưng người Pháp đã đàm phán với nó bản thỏa thuận đầu tiên hứa hẹn độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Rồi đến tháng 3-1949 một bản thỏa thuận khác lại được kí, lần này với Bảo Đại, cựu hoàng vừa trở lại với cuộc sống thường dân. Bản Hiệp ước Elysee trao “độc lập” cho “Bang Việt Nam”, Lào và Campuchia, những lãnh thổ này lại trở thành “bang liên kết” với Liên Hiệp Pháp. Bản thỏa thuận này cho phép Pháp làm ra vẻ cuộc chiến này như là một cuộc chiến giữa một quốc gia Việt Nam tự do và phe Cộng sản, chứ không phải là một cuộc chiến tranh thuộc địa.
Thế là, bây giờ có hai chính phủ đối đầu nhau ở Việt Nam, một chính phủ thì hướng về việc giành lấy độc lập trước khi thỏa thuận với Pháp bằng các hiệp ước, chính phủ kia thì dựa dẫm vào việc đoạt lấy độc lập bằng các biện pháp dần dần và mối quan hệ gần gũi với Pháp. Chính quyền Hồ Chí Minh có được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng cả miền Nam lẫn miền Bắc; họ xem quốc gia Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Pháp là một chính thể bất hợp pháp, tuy nhiên họ không thể thành lập các đơn vị quản lí ở những vùng do quân đội Pháp chiếm giữ. Ngược lại, chính quyền Bảo Đại lại hết sức thiếu và cần sự ủng hộ của nhân dân, cho rằng nước Việt Nam thực thụ là một quốc gia đã được Bảo Đại bảo vệ sự thống nhất bằng các thương thuyết. Những người yêu nước thực sự cần phải tụ tập về dưới cờ của ông (Bảo Đại) vì chính ông, chứ không phải Hồ Chí Minh, mới là người có cơ hội mang đến độc lập cho người Việt Nam lớn nhất. Ông ta làm điều này bằng ngoại giao kiên nhẫn và những tiến bộ chính trị bất bạo động, chứ không phải là chiến tranh hủy diệt. Thật không may cho Bảo Đại là chính quyền của ông ta vẫn không được ủng hộ rộng rãi, và vẫn phải dựa dẫm vào sự giúp đỡ của Pháp ở miền nam lẫn bắc để tồn tại qua ngày.
Người Pháp đã sai lầm khi tin rằng những hứa hẹn rất hạn chế về vấn đề dân tộc trong những hiệp ước với Bảo Đại hồi tháng 3-1949 sẽ lấy bớt sự ủng hộ dành cho Hồ Chí Minh và giúp Pháp đánh bại chính quyền của ông. Ngược lại là khác, cuộc đối đầu ở Đông Dương lại bắt đầu tiến vào một giai đoạn mới, nguy hiểm hơn. Sau khi thắng Tưởng Giới Thạch, phe cộng sản Trung Quốc đã được tự do sau những tuần cuối của 1949 và bắt đầu gửi nhiều tiếp tế hơn cho VNDCCH. Người Trung Quốc cung cấp vũ khí và trang bị cho Việt Minh, cũng như cung cấp những nơi trú ẩn ở Trung Quốc nơi mà quân đội Việt Minh có thể tập luyện cũng như dưỡng binh. Rất nhiều vũ khí được lấy từ đống vũ khí mà Mỹ đã gửi cho Tưởng Giới Thạch.
Hồ Chí Minh ít giành được sự ủng hộ từ những thế lực lớn khác hơn. Cả Mỹ lẫn Anh đều không chấp nhận lời thỉnh cầu viện trợ của ông. Càng ngày, các quan chức Washington càng xem vấn đề Đông Dương như không phải là một vấn đề thuộc địa mà là một phần của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Cộng sản trên toàn cầu. Họ tin rằng, mối đe dọa chính đến an ninh của Hoa Kì và hòa bình thế giới là khối cộng sản duy nhất, độc tài xuất phát từ Xôviết; bất cứ một người Cộng sản nào, ở bất cứ nơi nào, dù ở quê nhà hay ở nước ngoài, cũng đều là điệp viên bất đắc dĩ hay không của Matxcơva. Chẳng ngạc nhiên mấy khi mà chính quyền Truman bấy giờ đã làm ngơ không ít hơn 8 lời yêu cầu trợ giúp từ Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh và các tướng lãnh chính của ông ta là những người cộng sản, và có những mối quan hệ từ trước với Xôviết. Họ cũng là những nhà yêu nước thực thụ, những người đã chiến đấu trước tiên để đẩy lui người Nhật, và sau đó, khi Tokyo đầu hàng vào giữa năm 1945, đã ngăn Pháp thành lập lại sự cai trị của nó trên đất nước; tuy nhiên điều này chẳng hề làm những thế lực ở Washington bận tâm. Như thư kí liên bang Hoa Kì Dean Acheson đã nói vào tháng 5-1949, “liệu Hồ có yêu nước nhiều như ông ta yêu cộng sản hay không, điều đó không liên quan. Bất cứ người Stalinist nào ở những vùng thuộc địa đều là những người yêu nước.”
Ý tưởng này của Hoa Kì, xem Việt Nam như là một sân đấu cho Chiến tranh Lạnh, đã gần như bỏ quên sự đấu tranh cho công bằng xã hội và chủ quyền quốc gia đang diễn ra bên trong quốc gia này. Hơn nữa, Hồ Chí Minh vẫn bị gán ghép với chủ nghĩa cộng sản mặc cho có một sự thật rằng Liên bang Xôviết lúc đấy hầu như chẳng quan tâm gì đến cuộc đấu tranh ở Đông Dương hay là những khó khăn của Việt Minh. Matxcơva chẳng hề thừa nhận quan hệ ngoại giao với quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà Hồ Chí Minh đã tuyên bố tháng 8-1945. Cũng như Washington xem cuộc cách mạng của Việt Nam qua lăng kính của các nước phát triển châu Âu, Stalin cũng thế: ông không xem là quan trọng những đồng chí chưa biết mặt, ở một quốc gia bé nhỏ mà có rất ít ảnh hưởng kinh tế hay chính trị đối với Liên bang Xôviết. Cũng có thể là do Stalin đã nghi ngờ từ lâu sự “trong sạch” về lí tưởng của Hồ Chí Minh, sự nghi ngờ vốn có từ những năm 1920, làm cho ông ta có vẻ thờ ơ đối với cuộc cách mạng. Cuối cùng, một vấn đề khác đến từ đảng Cộng sản Pháp, đảng mà Stalin muốn thấy nó vững mạnh. Trong những năm đầu, đảng này đã ủng hộ chính phủ mạnh tay hơn với vấn đề thuộc địa, do đó đã làm cho Stalin không phản ứng gì đối với sự đàn áp của người Pháp với những người Cộng sản Việt Nam.
Do đó, trong những năm đầu của chiến tranh Việt Pháp, người Pháp có thể dựa vào sự không can thiệp của những siêu cường trên thế giới và thậm chí là những ủng hộ không nói ra của Mỹ. Việt Minh là những chiến binh bị cô lập. Chỉ đến khi phe cộng sản Trung Quốc đã chiến thắng, họ mới có được kha khá viện trợ từ bên ngoài. Thêm vào đó, họ không hề có thủy quân hay không quân, và chỉ 1/3 trong số 150,000 binh sĩ của họ có vũ khí hạng nhẹ; trong khi đó quân đội Pháp là 100,000 người được trang bị tận răng và huấn luyện kĩ càng.
Cứ theo logic mà nói, đây sẽ là một cuộc chiến mà Pháp đè bẹp Việt Minh. Ấy thế mà, tình hình lại xấu đi thấy rõ đối với Pháp. Mặc dù họ vẫn kiểm soát được các thành phố và thị trấn lớn, và với hỏa lực áp đảo họ hoàn toàn có thể đè bẹp Việt Minh trong những cuộc chiến chính quy, họ lại không thể đạt được bất cứ một chiến thắng quân sự nào. Ở vùng nông thôn, nơi đa số người dân sinh sống, Việt Minh mới là những người nắm sự áp đảo, một phần vì sự ủng hộ tuyệt đối của nông dân. Một sĩ quan Pháp cho rằng Pháp sẽ cần ít nhất 500,000 lính để quét sạch Việt Minh ở vùng nông thôn, và khuyên chính quyền Pháp nên từ bỏ ý định này. Một người khác thì nói rằng chìa khóa đến chiến thắng là qua chính trị chứ không phải quân sự. “Danh nghĩa “Chống Cộng sản” sẽ vô dụng chừng nào mà vấn đề chủ nghĩa dân tộc còn chưa được giải quyết”, ông đã nói như thế.
Nỗ lực chiến tranh của Pháp là một bài học lớn mà người Mỹ có thể sử dụng, tuy nhiên ít có người Mỹ nào chịu nhìn vào nó. Nhiều người có khuynh hướng đổ lỗi cho sự yếu kém của quân đội Pháp cho những khó khăn mà Pháp gặp phải trong chiến tranh. Nhiều người vẫn nghĩ, vẫn còn nhiều thời gian để xoay chuyển tình thế lại. Đầu những năm 1950, sau khi phe Cộng sản Trung Quốc thắng thế, nhưng trước cuộc chiến ở bán đảo Triều Tiên, chính quyền Truman đã đi bước đi đầu tiên can thiệp trực tiếp vào Đông Dương; Mỹ chọn cách dựng lên một chính phủ thuộc địa để chống lại sự bành trướng chủ nghĩa cộng sản cũng như duy trì sự ủng hộ của Pháp ở chính trường châu Âu trong chiến tranh Lạnh. Vào tháng Hai, chính phủ Mỹ chính thức công nhận chính phủ bù nhìn đứng đầu bởi cựu hoàng Bảo Đại. Đầu tháng Ba Mỹ hứa hẹn giúp đỡ về quân sự và kinh tế cho Pháp trong cuộc chiến. Sau khi chiến tranh liên Triều bùng nổ, người Mỹ lại càng lo ngại về ý định của Trung Cộng hơn, do đó lại càng củng cố ý định giúp đỡ Pháp của Mỹ.
Quyết định của Mỹ đến vào lúc tình hình đang rất chênh vênh cho Pháp. Tài nguyên của Pháp đang bị chiến tranh rút cạn nhanh chóng, làm ảnh hưởng đến tốc độ hồi phục của quốc gia sau Thế chiến thứ II và sự đóng góp của Pháp vào sự tái tổ chức lại châu Âu, cũng như những công việc của NATO. Thế nên các quan chức Pháp biết rõ rằng sự giúp đỡ của Mỹ là vấn đề sống còn. Hơn nữa, chiến thắng của phe cộng sản ở Trung Quốc đã thay đổi bản chất của cuộc chiến Việt Pháp, gây ra thêm sức ép cho Pháp. Được thêm sự giúp đỡ vật chất cũng như ủng hộ ngầm từ Trung Quốc, Đại tướng của Việt Minh Võ Nguyên Giáp đã bắt đầu những cuộc tiến công liều lĩnh, nhưng ông đã bị lực lượng của Pháp, được tiếp lửa bởi Tướng Jean de Lattre de Tassigny, chặn lại. Tuy nhiên, de Lattre sau đó đã nghỉ hưu và chết do ung thư dạ dày, và người kế nhiệm của ông đã không có những khả năng như ông.

ĐIỆN BIÊN PHỦ
Càng ngày, nỗ lực chiến tranh của Pháp càng tệ hơn; những lời đề nghị rút quân khỏi Đông Dương cũng được nghe thấy thường xuyên hơn ở Pháp, ngay cả từ những người không phải cánh tả. Tất cả những lời đề nghị này đều bị chính quyền Pháp bác bỏ. Paris cho rằng, sự rút lui của quân đội Liên hiệp Pháp sẽ đồng nghĩa với cuộc thảm sát của hàng ngàn người dân Pháp cũng như sự tàn lụi của những thành phần Việt Nam hợp tác với Bảo Đại. Nó sẽ có một hiệu ứng khủng khiếp lên tinh thần của những người đang nỗ lực chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản ở những nơi khác trong Đông Nam Á. Chính quyền Pháp tin rằng việc bám lấy Đông Dương là một chính sách thực dụng, lập luận rằng những người Việt Nam, mệt mỏi vì chiến tranh sẽ sớm hay muộn chấp thuận mọi sự sắp xếp cho một chính quyền ổn định, an ninh, và chính quyền đó sẽ về tay Bảo Đại; chỉ cần với điều kiện là người Pháp cần cầm chân Việt Minh lâu thêm một chút nữa thôi.
Thế là, cuộc chiến được tiếp tục, trong khi Hoa Kì tiếp tục gia tăng lượng viện trợ vật chất cho đến khi những người trả thuế ở Mỹ phải chịu đến ¾ phí tổn chiến tranh của Pháp vào đầu năm 1954. Máy bay ném bom, máy bay vận chuyển, xe tải, xe tăng, tàu chiến, vũ khí tự động, vũ khí hạng nhẹ và đạn dược, radio, trang bị bệnh viện và kĩ thuật cùng với viện trợ kinh tế được cung cấp ngày càng nhiều. Giữa năm 1950 và 1954, Mỹ đã đầu tư vào cuộc chiến Đông Dương gần 3 tỉ đôla.
Trên mặt trận ngoại giao, Washington gây áp lực mạnh lên những quốc gia vừa mới độc lập ở Nam và Đông Nam Á, buộc họ công nhận chính quyền của Bảo Đại. Áp lực lớn được gây lên những quốc gia như Ấn Độ, Burma, Phillipines và Thái Lan nhằm buộc họ thừa nhận Bảo Đại, nhưng đa số các quốc gia này không hào hứng mấy. Những người lãnh đạo của các nước này có khuynh hướng xem cuộc chiến của Việt Nam là một cuộc chiến yêu nước chống lại chủ nghĩa thực dân, và rất khó có thể giả vờ như không thấy rằng Pháp không chịu trao trả độc lập tuyệt đối cho Việt Nam, như chính quyền Truman làm. Ngay cả những người lãnh đạo của Phillipines, thuộc địa cũ của Mỹ, cũng chần chờ, làm cho Thư kí Bang của Hoa Kì Dean Acheson phải nói “cái sự thờ ơ, hoặc là thiếu hiểu biết, này sẽ là một tai họa cho những quốc gia này, khi mà chủ nghĩa cộng sản không ngừng bành trướng. Không thể nào giúp họ, nếu họ không sẵn sàng tự giúp mình.” Câu nói này được than thở hết lần này đến lần khác bởi Acheson và người kế nhiệm của ông ta trong những năm sau đó.
Trong khi đó, Việt Minh nhận được sự giúp đỡ quan trọng từ Xôviết và Trung Quốc, mặc dù mối quan hệ giữa nó với cả hai lực lượng cộng sản này đều khá vụn.Năm 1950, khi Hồ Chí Minh đi với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đến thăm Matxcơva bằng xe lửa nhằm đạt lấy sự ủng hộ của Xôviết trong cuộc chiến chống lại Pháp, Stalin đã tỏ vẻ khá coi thường. Tại buổi lễ kí kết hiệp ước Trung-Xô, Hồ Chí Minh đã đề nghị Satlin kí kết một hiệp ước tương tự với Việt Nam. Người lãnh đạo Xôviết này đã trả lời rằng vì Hồ Chí Minh đến thăm Matxcơva không chính thức, nên việc kí kết là bất khả thi. Hồ Chí Minh nhanh chóng đề nghị một cách hài hước rằng ông sẽ bay vòng vòng nước Nga bằng trực thăng rồi sau đó đáp xuống với trang phục trang trọng, Stalin đã cắt lời “Ôi, những người phương Đông các vị có trí tưởng tượng thật phong phú”.
Dù sao, vào cuối năm đó Stalin cũng đã công nhận DRV, và ông ta đồng ý gửi viện trợ vật chất đến cho Việt Minh trong cuộc chiến chống lại Pháp với điều kiện rằng Trung Quốc phải đóng vai trò chính trong việc điều khiển hướng đi của cuộc chiến. Hồ Chí Minh đã lo lắng. Ông và Võ Nguyên Giáp tất nhiên là đón mừng sự giúp đỡ của Bắc Kinh, nhưng mặt khác ông lại chẳng hề muốn thấy một sự ảnh hưởng nặng nề từ Trung Quốc lên những cuộc tranh luận về lí tưởng bên trong của Việt Minh. Ông đã không hài lòng với tư thế cách mạng cứng rắn mà các tư vấn của Mao đưa ra, và càng ngày càng lo lắng Việt Nam sẽ phải rơi vào sự thao túng của Trung Quốc, điều mà ông luôn muốn chống lại trong quá khứ. Trong phần còn lại của cuộc chiến Pháp Việt, ông đã làm việc cật lực để giữ Trung Quốc ở một khoảng cách an toàn.
Vào giữa năm 1953 người Pháp đã có được sự ủng hộ của Mỹ trong tham vọng quân sự đề đạt bởi Tướng Henri Navarre, người vừa được cử làm tổng chỉ huy lực lượng Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch Navarre gọi thêm 10 tiểu đội lính nữa đến Đông Dương và tăng cường đáng kể quân số bản địa; quân đội mới, mạnh hơn này sẽ là lực lượng chính để bứng Việt Minh ra khỏi căn cứ địa của họ ở đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên Navarre đã có một sai lầm chiến thuật chết người. Quyết tâm ngăn chặn lực lượng Việt Minh thâm nhập vào láng giềng Lào, cuối năm 1953 Navarre đã chọn cách chẹn họng ở Điện Biên Phủ, một căn cứ địa ở vùng biên giới xa xôi gần Lào. Ngược với kì vọng của Pháp, Võ Nguyên Giáp đã sử dụng pháo binh cung cấp bởi Trung Quốc và bắt chẹt quân Pháp trong thung lũng.
Nhân lúc công chúng Pháp còn đang lưỡng lự giữa áp lực của danh sách thương vong ngày càng tăng và những thụt lùi về quân sự có thể phải gánh chịu, Pháp cố gắng thêm 1 lần nữa vào năm 1954 hòng kiếm được sự can thiệp không quân của Hoa Kì để giảm bớt gánh nặng cho quân canh phòng Pháp đang mắc kẹt ở Điện Biên Phủ. Biết rằng thất bại Điện Biên Phủ có thể sẽ dẫn đến sự rút lui của Pháp ra khỏi Đông Dương, các nhà lãnh đạo ở Washington phải đối mặt với sự thật rằng chỉ có họ mới có thể cứu vớt tình thế. Sự quan trọng chiến lược của Đông Dương là chắc chắn: gần như ai cũng nghĩ rằng sự thống trị của cộng sản ở Việt Nam sẽ làm yếu đi các chính quyền phi cộng sản khác ở Đông Nam Á, với những nhánh rễ vươn sâu và xa. Tại một cuộc họp báo vào ngay 05 tháng 04, tổng thống Dwight D. Eisenhower đã công khai bày tỏ sự quan ngại của ông về điều mà sau này trở thành thứ được trích dẫn nhiều nhất khi biện hộ về sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam những thập kỉ sau đó – lí thuyết “domino”, trong đó nói rằng sự sụp đổ của một quốc gia trong khu vực về tay cộng sản sẽ làm cho các quốc gia khác cũng sẽ sụp đổ nhanh chóng như vậy. Đánh đổ một chiếc đôminô, những chiếc còn lại cũng sẽ ngã theo.
Mặc dù Việt Nam có tầm quan trọng chiến lược như thế, chính quyền Eisenhower đã quyết định không can thiệp theo hướng của Pháp. Dwight Eisenhower đã bí mật gọi Pháp là “một khối chất lỏng vô dụng, tuyệt vọng”, nhưng ông ta cũng giống như Truman, không có khuynh hướng xem cuộc vật lộn của Pháp là một sự mở rộng của Chiến tranh lạnh. Ông ta và thư kí liên bang, John Foster Dulles, xem xét cẩn thận nguyện vọng của Pháp, rồi hỏi Quốc hội vào tháng Tư quyền sử dụng quân đội Mỹ để cứu vãn tình thế Pháp nếu cần thiết. Những người làm luật, bao gồm nghị sĩ Cộng hòa Lyndon Baines Johnson từ Texas, từ chối làm theo như thế trừ khi những người Anh cũng tham gia. (Trong một cảnh báo mà sau đó đã quay trở lại ám Hoa Kì một thập niên sau, những nhà làm luật đã nói “chúng ta không cần thêm một Hàn Quốc thứ 2 với Hoa Kì cung cấp 90% trang bị”). Họ cũng khăng khăng rằng Pháp phải hứa trao trả độc lập cho Việt Nam nhanh chóng hơn. Thái độ này của Quốc hội đã khiến sự quyết định rơi vào tay người Anh, những người này cũng từ chối tham chiến trên bộ và lo lắng rằng nó sẽ gây ra một cuộc chiến thảm khốc với Trung Cộng và rất có thể là với cả Liên bang Xôviết. Các quan chức London không tin rằng một cuộc không kích sẽ đủ cứu vãn tình hình, và họ có vẻ không quan tâm lắm đến lí thuyết đôminô.
Ngày 7 tháng 5 1954, người Pháp đã đầu hàng tại Điện Biên Phủ. Ngày kế tiếp, một hội nghị quốc tế ở Giơnevơ vốn đã bắt đầu trước đó bắt đầu thảo luận về các căn bản cho một thỏa thuận ngừng bắn. Mặc dù cuộc chiến đang tiến đến cao trào và Việt Minh đã hứa sẽ tiếp tục chiến đấu cho đến khi họ đạt một thắng lợi hoàn toàn, vẫn có những hy vọng rằng một sự dàn xếp ngoại giao sớm vẫn là khả dĩ. Chính sách chung của Xôviết lúc đó là hòa giải mối quan hệ giữa Đông và Tây. Các quốc gia châu Á trung lập khác cũng rất trông ngóng sự kết thúc chiến tranh ở Đông Dương, vốn làm chậm đi sự phát triển của các nước vừa giải phóng ở Nam và Đông Nam Á. Trung Quốc cũng hồi hộp thành lập một mối quan hệ với các quốc gia châu Á khác vẫn đang cô lập ngoại giao và cuộc chiến đã làm chậm việc nối lại quan hệ ngoại giao. Mà người Trung Quốc không muốn đuổi theo bước chân càng lúc càng nhanh của Mỹ trong việc đổ tài khí vào Đông Dương mãi, với nguy cơ xảy ra chiến tranh với chính họ. Hơn nữa, họ rõ ràng tin tưởng rằng Việt Minh đã bám rễ vào Đông Dương đủ mạnh để những lợi ích của cộng sản sẽ được thi hành ở đây sau này. Một vài lực lượng của NATO nghĩ rằng Paris nên “cắt lỗ” ở Đông Nam Á và thay vào đó, tập trung vào việc tái thiết châu Âu.
Tuy nhiên, chính quyền Eisenhower không cảm thấy như vậy. Đại diện của Mỹ ở Geneva, thư kí liên bang John Foster Dulles, có một mối dự cảm nặng nề về cuộc thương thuyết, và ông ta khuyến khích Pháp tiếp tục cuộc chiến ở Đông Dương vì một “thế giới tự do”. Người Pháp, dưới triều thủ tướng mới Pierre Mendes France, từ chối, và vào tháng 7 một hiệp ước hòa bình đã được kí. Nhưng, vị trí của Hoa Kì trong cuộc nói chuyện đã ảnh hưởng mạnh đến các điều khoản trong hiệp định, và đặt nền móng cho một cuộc chiến mới. Hiệp định Geneva đã mang đến dấu chấm hết cho cuộc chiến Việt – Pháp, nhưng một sức mạnh phương Tây mới đã sẵn sàng nhảy vào.

HỘI NGHỊ GENEVA
Điện Biên Phủ là một thất bại ê chề với Pháp, với hơn 7 năm chiến tranh đẫm máu và những lời hứa liên tục từ các tướng Pháp rằng thắng lợi đang đến rất gần. Tuy nhiên, các quan chức ở Paris đã chấp nhận kết quả này một cách điềm tĩnh hơn nhiều so với đồng nhiệm của họ ở bên kia Đại Tây Dương. Khi các nhà hoạch định chính sách của Paris bắt đầu nói đến một sự dàn xếp sớm vào giữa 1953, các quan chức Mỹ đã bị sốc. Ngay đến khi hội nghị Geneva bắt đầu, chính quyền Mỹ vẫn tìm cách lên gân Pháp, khi mà Dulles nói với bộ trưởng ngoại giao Pháp Georges Bidault vào tháng 7-1953 rằng không có một đàm phán nào sẽ xảy ra cho đến khi họ đã lật ngược được thế cờ - tức là, cho đến khi Pháp có tư cách để ra điều kiện.

Việc không chịu ngồi vào bàn đàm phán cho đến khi họ có thể dùng vũ lực buộc đối phương nghe lời vốn là một chiêu thức ngoại giao từ lâu của Mỹ, nhưng nó trở nên quan trọng hơn sau Thế chiến thứ II, khi mà Mỹ sở hữu nhiều quyền lực hơn bao giờ hết trong những sự vụ thế giới (những cường quốc mạnh nhất thường thích thỏa hiệp), và khi chính sách “Containment” trở thành kinh chỉ nam của chính sách đối ngoại Hoa Kì. Có thể nói “Containment” đã đánh dấu sự chiến thắng của chiến thuật đối với ngoại giao, khi mà sự phát triển căn cứ quân sự và vũ khí quan trọng hơn là thương lượng, đàm phán, thay đổi. Những người cộng sản là “những đứa con của bóng tối”, “nguồn gốc của sự xấu xa trên thế giới”; thương lượng với họ là điều không tưởng tượng nổi. Như Henry Kissinger đã viết, Containment “ngoại giao chẳng đóng vai trò nào cho đến tận cảnh cuối cùng, khi mà những người đàn ông đội mũ trắng chấp nhận sự chuyển hóa của những người đàn ông đội mũ đen”. Mỹ muốn kẻ thù của mình đầu hàng vô điều kiện; thế nên họ đã phản ứng mạnh khi hội nghị Geneva đến gần. John Foster Dulles đã miễn cưỡng đến hội nghị và ông ta thậm chí còn nói rằng ông ta chỉ gặp bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Chu Ân Lai nếu như xe của họ đâm vào nhau. Thế là, đến lúc 2 người phải bắt tay nhau, Dulles đã từ chối.
Tuy nhiên, hội nghị đã không diễn ra quá tồi như Washington đã lo sợ. Có một câu danh ngôn về chiến lược quân sự thường được người Mỹ nhắc đến thế này: nếu anh không chứng tỏ được bản lĩnh của anh trên chiến trường, anh không thể nào thắng được trên bàn thương thảo cả. Câu danh ngôn này, cũng như nhiều câu danh ngôn khác, vốn không nhất thiết là đúng. Chỉ cần liếc sơ qua những cuộc chiến ở thế kỉ 20, người ta dễ thấy rằng những thỏa thuận ngoại giao cuối cùng thường không phản ánh hoàn toàn cán cân kinh tế-chính trị trên chiến trường. Tại Geneva năm 1954, Việt Minh đã ở một vị trí ưu thế tuyệt đối dưới mọi góc độ. Nó đã đạt được được một chiến thắng quyết định với Pháp tại Điện Biên Phủ, và họ lấn áp về kinh tế và quân sự trên toàn cõi Việt Nam. Ở quốc gia láng giềng Lào, chính phủ thân Việt Minh Pathet Lào cũng kiểm soát 50% lãnh thổ. Hơn nữa, Pháp cũng đã nói rõ rằng nó không thể tiếp tục cuộc chiến – kể cả công chúng Pháp lẫn những nhà cầm quyền đều không có ý chí đi tiếp.
Thế nhưng, bản nghị định cuối cùng ở Geneva đã không phản ánh được sự vượt trội này của Việt Minh. Bản Hiệp định, kí vào tháng 7-1954, đã tạm thời chia Việt Nam ra làm 2 phần dọc theo vĩ tuyến 17 – đường phân cách này đã được nhấn mạnh là “tuyệt đối không được diễn giải là đường phân cách chính trị hay biên giới” – và một vùng phi quân sự (DMZ) 10 kilomet dọc theo đường phân cách. Lực lượng Việt Minh sẽ tập trung về miền Bắc DMZ và lực lượng PHáp tập trung về miền Nam. Một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956, sau một năm thương thuyết giữa đại diện của 2 miền. Ngoài ra, không một sự tăng cường quân đội, tái vũ trang, căn cứ quân sự hay quân đội nước ngoài nào được diễn ra trên cả 2 miền. Một Hội đồng Kiểm soát Quốc tế (ICC) bao gồm đại diện của Canada, Ấn Độ và Ba Lan sẽ giám sát những điều khoản của hiệp định và rà soát bất cứ phàn nàn nào. Lào và Campuchia sẽ được tuyên bố là những quốc gia độc lập, với Pathet Lào – vốn bị cấm tham dự hội nghị - chỉ được giao quyền quản lí 2 vùng nhỏ và thưa dân cư.
Thế là, Hồ Chí Minh chỉ giải quyết được một nửa quốc gia, trong khi quân đội của ông đã chiếm ưu thế trên toàn quốc gia. Tại sao ông lại làm như vậy? Nói đơn giản là, bởi vì những “người chơi” chính ở Geneva đã không cho ông bất cứ một phương án thay thế thực sự nào. Quan chức Mỹ đã có một quan ngại sâu sắc về việc đến Geneva, nhưng khi đến nơi, họ đã chơi một trò chơi ngoại giao khôn ngoan. Họ tham dự vào cái mà John Foster Dulles gọi là ngoại giao kiểu “hành động níu giữ” nhằm ngăn chặn một sự sắp xếp “dâng Đông Dương cho Việt Minh”. Cụ thể là, Washington tiếp tục nửa úp nửa mở đe dọa can thiệp quân sự nếu như họ không hài lòng về những điều khoản của hiệp định, và nhìn chung là bắt những nhà đại biểu khác phải đoán mãi về kế hoạch thực sự của họ. Hai cường quốc Tây phương khác, Pháp và Anh, không muốn Mỹ can thiệp quân sự vào Đông Dương, và cũng không muốn cô lập Mỹ quá đáng vào Việt Nam – sẽ có quá nhiều vấn đề song phương Anh-Mỹ và Pháp-Mỹ bị ảnh hưởng. Pháp cũng muốn giữ lại một chút ảnh hưởng ở Đông Dương qua việc chia Việt Nam ra làm 2 phần.
Trong khi đó, Liên bang Xôviết cũng hồi hộp muốn giữ Pháp ở ngoài Cộng đồng Phòng thủ Châu Âu (EDC) do Mỹ tài trợ, chấp thuận một vài mong muốn của Pháp ở Đông Dương như là một cách để giảm sự tận tụy của Pháp đối với các đồng minh Tây phương. Cũng như chính phủ London và Paris, Matxcơva cũng muốn tránh sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam, và họ nhìn Đông Dương – một khu vực mà những người lãnh đạo Xôviết từ lâu chỉ xem như mối quan tâm thứ yếu – một cơ hội để minh chứng cho sự “chung sống hòa bình” qua việc thỏa hiệp với phương Tây.
Quan trọng nhất, Trung Quốc cũng đặt sức nặng của họ vào Hiệp định. Ngườiđại diện chính của Trung Quốc tại Geneva, bộ trưởng ngoại giao Chu Ân Lai, tạo sức ép lên đại biểu của Việt Minh, dẫn đầu bởi Phạm Văn Đồng, để họ chấp nhận những điều khoản. Mục đích của Bắc Kinh vốn phức tạp, nhưng sự quan tâm chính của họ cũng hệt như Xôviết, Pháp và Anh: nhằm tránh cho Hoa Kì một cái cớ để can thiệp vào Việt Nam. Do đó họ muốn có một sự dàn xếp nào mà Hoa Kì ít nhất có thể ủng hộ, mặc dù miễn cưỡng. Thêm vào đó, Trung Quốc cũng tìm kiếm một thời gian hòa bình trong khu vực, để họ có thể tập trung vào phát triển kinh tế - hai thập kỉ chiến tranh và nội chiến liên miên đã có ảnh hưởng nặng nề.
Áp lực của Trung Quốc và Xôviết lên VNDCCH đã khiến họ chấp nhận sự giải quyết thỏa hiệp khi kí Hiệp định. Nhưng Hà Nội cũng thấy những lợi ích từ cuộc thỏa thuận này. Phạm Văn Đồng, cũng như các quốc gia khác tại Geneva, luôn muốn tránh sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam, đồng thời ông cũng tự tin rằng sự tái thống nhất đất nước có thể đạt được bằng phương pháp hòa bình, nên ông đã đồng ý chấp thuận các điều khoản của hiệp định. Dù sao, đó cũng là một điều bực mình cho ông và Việt Minh. Đó là một sự thật không thể chối cãi: họ đã rời Geneva với ít hơn nhiều so với những gì họ mang đến.
Có vẻ như các nhà lãnh đạo Hoa Kì hoàn toàn có thể hài lòng với kết quả của hội nghị này; thế nhưng họ lại không hề hài lòng chút nào. Họ hiểu rằng họ đã có một kết quả tốt nhất có thể, khi nghĩ đến sự kiệt sức của Pháp và tình hình chiến trường ở Việt Nam, nhưng họ vẫn không muốn kí bản Hiệp định. Anh, Pháp, Trung Quốc, Xôviết và CHDCND Việt Nam đã làm như thế, nhưng Hoa Kì và Bang Việt Nam (State of Vietnam) đã từ chối. Thay vào đó, Washington ra một tuyên bố riêng rằng họ đồng ý với những nguyên tắc chung và hứa hẹn sẽ không “làm phiền” bằng “sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực”. Eisenhower tuyên bố rằng “tự thân Hoa Kì không thuộc về hoặc bị giới hạn bởi những quyết định đưa ra trong hội nghị (Geneva)”.
Rõ ràng rằng nhóm của Eisenhower muốn giữ sự tự do hành động của Mỹ. Tổng thống và những cố vấn hàng đầu nhận thức rằng nếu Hiệp định được thực hiện đúng và đầy đủ thì chỉ có lợi cho Hồ Chí Minh và chính quyền của ông mà thôi. Hà Nội có thể bị ép buộc rút quân khỏi Nam Việt Nam, Lào và Campuchia, và chấp nhận một sự chia cắt đất nước tạm thơi, nhưng nhìn chung họ vẫn rời Geneva trong một tư thế vững vàng. Bang Việt Nam (chính quyền thuộc Pháp ở Nam Việt – State of Vietnam) ở miền Nam là một thực thể yếu, với người lãnh đạo là Bảo Đại vốn có rất ít sự ủng hộ. Trong khi đó VNDCCH lại có sự ủng hộ quốc tế và một sự lãnh đạo tiên tiến, mạnh mẽ đã đánh bại người Pháp. Nếu Hiệp định Geneva được tiến hành và cuộc bầu cử 1956 được tổ chức, người Cộng sản sẽ có quyền hành điều khiển toàn đất nước.
Nhằm ngăn chặn kết cuộc ấy, Washington nhanh chân xây dựng một hệ thống phòng thủ khu vực khi Hội nghị Geneva vừa kết thúc. Ngày 12/08/1954, NSC (Hội đồng An ninh Quốc gia của Hoa Kì) đã họp và quyết định rằng sự ủng hộ của Mỹ với cuộc chiến của Pháp đã làm họ mất “thể diện” nghiêm trọng. Nhằm lấy lại thể diện ấy, họ phải ngăn ngừa những sự thua thiệt hơn nữa ở Đông Nam Á. Nhiệm vụ ngay tức thời là thay thế Pháp như là người viện trợ tài chính và quân sự trực tiếp cho miền Nam Việt Nam. Tài liệu rút ra từ buổi họp đó, NSC 5429/2 (phê duyệt bởi Eisenhower ngày 20/08), đã đặt vấn đề đơn giản: “Mỹ phải bảo vệ vị trí và khôi phục lại thể diện của nó ở vùng Viễn Đông bằng một khởi đầu mới ở Đông Nam Á, phải ổn định tình hình ở đó nhanh nhất có thể nhằm phòng ngừa những mất mát hơn nữa về tay Cộng sản qua (1) mở rộng và bành trướng từ từ hoặc (2) xâm lược mở.” Tài liệu này kết luận với một khuyến nghị thành lập một hội đồng an ninh chung của Đông Nam Á và ủng hộ “hoạt động ngầm trên một quy mô lớn và có hiệu quả nhằm thực hiện các chính sách hiện thời”.
John Foster Dulles đã nghĩ đến những điều tương tự. Vào tháng 9/1954, dưới sự hướng dẫn của ông ta, một tổ chức phòng thủ khu vực lỏng lẻo đã được thành lập với cái tên Tổ chức quân sự Đông Nam Á (SEATO). Tổ chức này có sự kết nạp thành viên lạ lùng: Mỹ, Anh, Pháp, Úc và New Zealand. Chỉ có 3 quốc gia châu Á chọn tham gia: Thái Lan, Phillipines và Pakistan (quốc gia sau cùng tham gia chủ yếu vì nó mong rằng SEATO có thể giúp nó chống lại kẻ thù lâu năm, Ấn Độ). Mỗi quốc gia hứa hẹn rằng trong trường hợp có một quốc gia hay lãnh thổ Đông Nam Á bị tấn công, nó sẽ đáp trả “tùy theo quy trình quy định trong Hiến pháp”. Nói cách khác, không có thành viên nào bị buộc phải làm gì quá nhiều. Trong thực tế, SEATO hầu như chẳng liên quan gì, vì không có thành viên nào của nó có chung nỗi sự hãi với Washington về cái gọi là “sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản” trong khu vực. Hầu như không liên quan, chứ không phải là tuyệt đối không: trong 12 năm tới đây, “quan chức Hoa Kì sẽ dùng cái có vẻ như là hiệp ước an ninh chung này để giải thích cho hành động can thiệp đơn phương của nó vào Việt Nam”, một sử gia đã nhận định.

KẺ THẦN BÍ TẬP YOGA
Đội ngũ của Eisenhower cũng đã di chuyển tích cực trong miền Nam Việt Nam trong những tháng đầu sau khi hội nghị Geneva kết thúc. Một trong những chỉ trích của chính phủ Hoa Kì đối với Pháp trong cuộc chiến là Paris chẳng bao giờ ủng hộ những nhà yêu nước chống cộng sản hồi đó, những người có thể trở thành một thử thách thật sự cho sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Bây giờ thì Mỹ đã có cơ hội sửa cái sai đó. Vào tháng 6, giữa lúc hội nghị Geneva đang họp, Hoàng đế Bảo Đại, với mong muốn có được sự ủng hộ của Mỹ đối với Bang Việt Nam, đã chỉ định Ngô Đình Diệm làm thủ tướng chính phủ. Bảo Đại xem Diệm như là một kẻ “khó khăn” bởi vì khuynh hướng cuồng tín của ông ta, nhưng Bảo Đại vẫn mong Washington ủng hộ sự chống Cộng sản điên cuồng của Diệm. Một vài nhà quan sát đã xem Diệm như là “trong túi của Hoa Kì”. Đấy là một sự phóng đại, nhưng chắc chắn là các quan chức Mỹ đã mong rằng với Diệm, họ có thể thành lập được một pháo đài phi cộng sản ở miền Nam.
Diệm là một kẻ khổ hạnh, được sinh trong một gia đình Công giáo ở cố đô Huế năm 1901. Ông ta vào học trường Quốc học danh tiếng và sau đó lấy bằng luật ở Đại học Hà Nội. Sau khi đi lính, ông ta đi nghĩa vụ và thăng tiến nhanh chóng, trở thành người đứng đầu nội các cho chính quyền Bảo Đại năm 1933. Ông ta xin từ chức một vài tháng sau đó, nhằm phản đối việc Pháp từ chối cho Việt nam nhiều tự chủ hơn.
Trong hai thập kỉ sau đó, Diệm không hề hoạt động chính trị. Vốn là một người Công giáo nòi, ông ta hoàn toàn chống lại chủ nghĩa Cộng sản, và đến cuối 1945, ông ta từ chối lời đề nghị của Hồ Chí Minh nhằm cộng tác với Việt Minh. Đến năm 1950, Diệm từ chối lời mời của Bảo Đại làm thủ tướng chính phủ cho Bang Việt Nam, và ông ta du hành đến Nhật, châu Âu và Hoa Kì, và ông ta ở 2 năm ở Maryknoll Seminary, New Jersey. Sự vắng mặt lâu dài đối với quần chúng cũng như lối sống khổ hạnh và kín đáo của ông ta làm cho ông ta khó có thể trở thành nhà lãnh đạo một quốc gia. Tuy nhiên, cái tên của ông ta vẫn có một ảnh hưởng nhất định ở Việt Nam, và ông ta đã liên hệ với nhiều người Mỹ có ảnh hưởng khi còn ở Hoa Kì: Francis Cardinal Spellman, thẩm phán William O. Douglas, và nghị sĩ Mike Mansfield và John F. Kennedy. Vào giữa năm 1954, khi mà Việt Nam sắp bị chia cắt thành 2 miền bởi hiệp định Geneva, Diệm nhanh chóng quay về Sài Gòn. Lần này ông ta đã chấp thuận lời đề nghị của Bảo Đại.
Những quan chức Mỹ không hào hứng mấy về quyền lực của Diệm, vì họ biết rõ bản chất kín đáo, kiêu hãnh của ông ta cũng như ông ta có rất ít sự ủng hộ của công chúng. Một nhà ngoại giao Mỹ gọi ông ta là “một nhà tiên tri mà chẳng có lời tiên tri nào” (a messiah without a message). Một người khác quan sát rằng Diệm “chẳng làm được gì ngoài việc lặp lại rằng giải pháp cho vấn đề Việt nam phụ thuộc vào trách nhiệm ngày càng nặng của Mỹ”. Một hồ sơ tâm thần của Diệm mô tả ông ta là nghi ngờ tất cả những lời khuyên của mọi người, trừ gia đình của ông ta. Ông ta hay dùng nhiều giờ để ngồi thiền một mình. Ông ta chẳng bao giờ thoải mái bên cạnh phụ nữ, và những nhà phân tích tình báo thậm chí còn nói rằng họ chẳng có bằng cớ nào cho thấy ông ta có một mối quan hệ tình dục nào.
Tuy nhiên, mặc cho những điểm yếu đó, Diệm vẫn là ứng viên tốt nhất cho nhà lãnh đạo Nam Việt Nam dưới mắt các quan chức Mỹ, và thế là họ đặt cược vào ông ta. Một nhà phân tích của Mỹ tổng kết sự khó xử của Washington: “Chúng ta đã chuẩn bị chấp nhận một lời đề nghị nực cười rằng kẻ thần bí tập yoga kia có thể lãnh hết tất cả những trọng trách sắp tới, chỉ vì tiêu chuẩn những kẻ tiền nhiệm của ông ta quá thấp.”
Ngay từ đầu, chính quyền đã đưa ra sự ưu tiên hàng đầu là xây dựng quân đội cho Nam Việt Nam. John Foster Dulles gọi nó là bước đi tất yếu đầu tiên trong việc xây dựng một chính quyền bền vững. Với sự rút lui của Pháp, sự hiện diện của một đội quân đầy kinh nghiệm và lớn mạnh ở miền Bắc, và sự bất ổn liên miên ở miền Nam, tất cả đều cần đến một đội quân hùng mạnh. Từ giữa 1955 đến 1961, viện trợ quân sự chiếm hơn 78% tổng số viện trợ của Mỹ đến miền Nam Việt nam.

SỰ XÍCH MÍCH Ở PHƯƠNG TÂY
Những dấu hiệu cho thấy vai trò ngày càng lớn của Mỹ trong chiến tranh, được làm rõ bởi sự viện trợ cho Diệm, đã gây ra những sự xích mích với Pháp vào những tháng cuối 1954 và năm 1955. Sự hợp tác Pháp-Mỹ ở Đông Dương đã luôn đầy những căng thẳng và không tin tưởng lẫn nhau, và sự xích mích này không dừng lại ở Geneva. Thủ tướng Pháp Mendes France muốn hợp tác với Washington càng nhiều càng tốt, và khi hội nghị Geneva kết thúc hai quốc gia nỗ lực hợp tác để xây dựng một chính quyền khả dĩ ở Sài Gòn, nhưng sự khác biệt mục tiêu đường dài và phương pháp hành động đã làm hỏng nỗ lực này. Cả hai phía đều thấy những điểm yếu của Ngô Đình Diệm, nhưng trong khi Mỹ vẫn tiếp tục hợp tác với ông ta, thì Paris lại muốn thay ông ta bằng ai khác ít chống Pháp hơn, cũng như có khả năng lãnh đạo một chính quyền hơn. Khi người Pháp trì trệ việc chuyển giao quyền lực cho Diệm cho đến tháng 12, những nhà hoạch định chính sách Hoa Kì cho rằng Paris đang cố gắng giữ lại quyền hành của họ ở miền Nam cũng như bắc cầu cho Hà Nội. Các quan chức Mỹ cũng biết rằng, Pháp đang trợ giúp cho các đối thủ chính trị của Diệm và cố gắng lật đổ ông ta. Như thế còn chưa đủ, sự xích mích Pháp-Mỹ còn bị đào sâu thêm bởi việc Pháp từ chối tham gia EDC (Cộng đồng Phòng thủ Châu Âu) một tháng sau hội nghị Geneva.
Mà không phải chỉ có mỗi Pháp bất đồng với Mỹ về kết quả tốt nhất cho Đông Dương vào giữa 1954, và trên một phương diện rộng hơn, sự thỏa hiệp với Cộng sản. Chính quyền Anh, cũng tương tự thế, ngồi vào bàn hội nghị với một ý tưởng khác với Mỹ về những gì đáng lẽ nên diễn ra. London và Washington cùng đồng ý với nhau về việc nên kiểm soát sự bành trướng của Cộng sản ở Đông Nam Á, nhưng bất đồng về phương pháp hành động. Với người Anh, cuộc tổng bầu cử năm 1956 quy định bởi hiệp định Geneva cần phải xảy ra, ngay cả khi nó có nghĩa là một chiến thắng cho Hồ Chí Minh. Dưới con mắt của người Anh, một quốc gia Việt Nam Titoist (chủ nghĩa Cộng sản kiểu Josip Broz Tito) thống nhất là một kết quả vừa ý, nếu như phải chọn lựa với giải pháp thay thế là sự bất ổn liên miên và cuối cùng là chiến tranh. Khi Washington chuẩn bị phá hỏng hiệp định Geneva ngay sau khi hội nghị vừa kết thúc – thay ảnh hưởng của Pháp bằng ảnh hưởng của Mỹ và tìm cách biến đường ngưng chiến thành một biên giới vĩnh viễn – các quan chức Anh đã bực mình, và sự tức tối của họ đã tăng lên khi Diệm quyết định từ chối tổng tuyển cử 1956. Những sự liên tưởng của người Mỹ về “bài học Munich” đã không thuyết phục được người Anh; sự liên hệ này đơn giản là không thể áp dụng đối với Đông Nam Á những năm 50 được. Họ cũng không đồng ý với sự lưu ý của nhà Trắng về lí thuyết đôminô, rằng sự “mất” Việt Nam sẽ dẫn đến sự sụp đổ của toàn Đông Nam Á. Người Anh không nghĩ rằng kết quả của cuộc phiêu lưu của chính họ ở Malaya phụ thuộc vào những gì xảy ra ở Việt Nam.

Ngay từ giữa năm 1950, chúng ta đã thấy nhưng dấu hiệu đầu tiên cho những gì một thập kỉ sau trở thành đặc trưng của ý kiến quốc tế về vấn đề Việt Nam: sự cô lập của Mỹ bởi các thành viên khác của phương Tây. Cũng như trong trường hợp sau này, sự khác biệt không phải lúc nào cũng thấy được – trong cả hai thời kì, Anh đều cố gắng tránh đối đầu trực tiếp với Mỹ về vấn đề này – nhưng chúng (sự khác biệt) là có thật. Khi đó, ngay cả các quốc gia châu Á cũng nghi ngờ các mục tiêu của Mỹ. Nhớ lại rằng SEATO, thành lập vào năm 1954, chỉ gồm có 2 quốc gia Đông Nam Á, Thái Lan và Philippines. Ấn Độ và Indonesia, những quốc gia quan trọng nhất ở Nam và Đông Nam Á, đã từ chối gia nhập, cũng như là Burma.
Geneva và kết cuộc của nó đã cho thấy rõ ràng những chính sách của Mỹ bị ảnh hưởng rất lớn từ những vấn đề chính trị trong nước của nó. Ở đây cũng có một sự liên hệ với thời kì 1963-65. Rõ ràng, một lí do mà chính quyền Mỹ cố hết sức để không phải dính vào hiệp ước Geneva chính là họ sợ rằng họ sẽ phải đối mặt với những phản ứng dữ dội từ những người chống Cộng công khai trong Nghị viện. Vừa mới 4 năm trước thôi, Truman đã bị chỉ trích nặng nề bởi vì “để mất” Trung Quốc, và sự lo sợ lặp lại vấn đề ấy nhất định là một gánh nặng to lớn đối với Eisenhower. Cái bóng của Joseph McCarthy vẫn còn quá lớn.
Khi Hội nghị Geneva kết thúc, sự phản ứng trong nước có vẻ khá nhẹ. Nghị sĩ Cộng hòa William Knowland của California đã tuyên bố sự dàn xếp này là “chiến thắng to lớn nhất của những tên Cộng sản trong vòng 20 năm”, và Cardinal Spellman nói đến “hàng triệu người Đông Dương vừa mới bị phản bội”, những người mà “phải học đến sự nô lệ khủng khiếp từ những ông chủ Cộng sản của họ”. Tuy nhiên, nhìn chung thì sự phản ứng đối với hiệp định là không có mấy, tức là chính sách của Nhà Trắng đã có hiệu quả, hoặc là, vấn đề Việt Nam chưa làm bận tâm mấy những nhà chính trị, hoặc là cả hai.
Ít nhất thì, những mối quan tâm chính trị ở trong nước đã làm cho những quan chức chính phủ viện đến viễn cảnh tận thế để biện hộ cho chính sách của họ, rồi chính điều này đã làm cho họ “ngây thơ” hơn thực sự.

CHỦ NGHĨA THỰC TẾ CỦA MỸ ?
Điều này mang chúng ta đến một điểm giống nhau nữa của thời kì 1954-55 và 1964-65: chủ nghĩa thực tế thống trị trong những nhà hoạch định chính sách hàng đầu cũa Mỹ. Những quan chức lâu năm biết rằng họ đang đối mặt với nhiều chướng ngại lớn trong việc xây dựng một quốc gia Nam Việt nam. Họ biết rằng Việt Minh là một đối thủ đáng gờm. Họ tin tưởng vào Diệm hơn là họ tin Pháp và Anh, nhưng không nhiều hơn là mấy; Eisenhower, như chúng ta đã thấy, đã nghi ngờ khả năng của ông ta (Diệm) ngay từ đầu: sự thiếu thực tế trong chính trị, sự cứng nhắc trong suy nghĩ, tôn giáo Công giáo trong một quốc gia mà đa số là Phật giáo. Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) , nơi có những bản phân tích tình huống chính trị và quân sự hết sức chính xác trong giai đoạn này, đã thường xuyên cảnh báo về những chướng ngại phía trước; tất nhiên không phải tất cả mọi cảnh báo này đều được nghe thấy, nhưng ít ra một số cảnh báo cũng đã lọt đến tai những quan chức cao cấp nhất.
Trong một lúc nhất thời, John Foster Dulles đã cho rằng khả năng thành công của canh bạc Nam Việt là chừng 10% - chẳng phải là một dấu hiệu lạc quan gì. William J. Duiker, một người nghiên cứu cẩn thận về thời kì này, đã nói chính xác rằng chính quyền Eisenhower “bước vào cuộc thử nghiệm Diệm với con mắt mở to dè chừng”. Cũng hệt như tình huống một thập kỉ sau này, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ có những khác biệt với những người hoài nghi không phải ở việc chẩn đoán bệnh, cũng không phải ở việc tiên đoán bệnh, mà là ở việc kê đơn chữa bệnh. Trong cả 2 giai đoạn kê đơn chữa bệnh, họ (những nhà hoạch định chính sách) tỏ ra hết sức cứng nhắc, thiếu tưởng tượng và thiển cận.
Tuy nhiên, mối liên hệ giữa cách suy nghĩ của các quan chức Mỹ ở Việt Nam thời kì đầu và giữa thập kỉ 50 với thời kì giữa 60, cũng như những hằng số quan trọng luôn hiện diện ở cả 2 thời kì, không thật sự quá rõ ràng. Những việc mà Truman và Eisenhower làm ở Việt Nam không phải là những việc hay ho gì, và họ có kha khá trách nhiệm cho cuộc chiến xảy ra vào những năm 1960-70 đã lấy đi hàng trăm ngàn mạng sống và tàn phá phần lớn Đông Dương. Các quyết định chính sách của họ đã đặt nền móng quan trọng cho những gì xảy ra sau đó. Tuy nhiên, sự đánh giá sai và thất bại chính sách trong giai đoạn sớm này có thể dễ dàng thông cảm và có lí hơn những chính sách sai lầm đưa ra trong những tháng quyết định 1963, 1964 và 1965. Những sự đánh giá căn bản – tầm quan trọng của Việt Nam, những chướng ngại phía trước, cái giá của việc rút quân – là giống nhau ở cả 2 giai đoạn, nhưng nếu như ở nửa đầu 1950 nó còn có lí phần nào, thì một thập kỉ sau nó hoàn toàn không còn là như vậy nữa (không có lí nữa). Nhìn lại mà nói thì, chính quyền Truman đã ở sai phía của lịch sử khi theo phe Pháp chống lại Việt Minh, nhưng quyết định viện trợ năm 1950 vẫn rất có lí khi mà người ta nghĩ về “cú sốc kép” năm 1949 – việc Xôviết nổ thử bom nguyên tử và chiến thắng của phe Cộng sản ở Trung Quốc – khi mà sự cộng tác của Pháp ở châu Âu vẫn còn quan trọng.
Tương tự như thế, mặc dù các nhà chính sách Mỹ trong giai đoạn hậu Geneva đã sai lầm khi từ chối ý tưởng về một nước Việt nam Titô thống nhất, nhưng những lí do để họ làm vậy không hoàn toàn là sai lầm. Những thành công trong các chiến dịch chống Cộng ở Hy Lạp năm 1947, Iran năm 1953, Guatemala năm 1954 và Phillipines cũng trong cùng năm đó, lẽ tự nhiên, đã làm cho các quan chức Mỹ tin rằng họ sẽ thành công thêm lần nữa, rằng họ có thể dùng cách đó để tìm một điều gì tốt hơn là Titô-ít; nhưng vào những năm 1960s thì điều này rõ ràng đáng ngờ hơn nhiều. Eisenhower và Dulles đã quá vội bỏ quên bài học từ thất bại của Pháp, nhưng điều này vẫn dễ thông cảm hơn trong trường hợp của họ hơn là trường hợp của Kennedy và Johnson.
Ngay cả quyết định hoàn toàn ủng hộ Diệm, điều gặp phải sự phản đối từ London, Paris và ngay cả một số quan chức Mỹ cao cấp (đáng kể nhất là Tướng J. Lawton Collins, đại diện đặc biệt của Mỹ tại Việt Nam với tư cách Đại sứ), cũng có thể hiểu được với những gì đang diễn ra lúc bấy giờ. Eisenhower và Dulles có thể trnah luận rằng, mặc dù có nhiều yếu điểm, sự cố chấp chống thực dân và đơn giản của Diệm có thể là tất cả những gì Nam Việt cần cho một người lãnh đạo. Hơn nữa, cả Pháp lẫn Anh hay bất cứ ai khác cũng không thể nghĩ ra được một thay thế nào cho Diệm, điều này làm chỉ trích của họ ít gay gắt hơn nhiều. Sau rốt, quyết định giữ một chân ở Nam Việt không phải là một quyết định vô lí vào năm 1954, nếu xét đến sự toàn cầu hóa của Chiến tranh Lạnh, thực tế nội bộ Mỹ, và cái giá có vẻ khá nhẹ nhàng – vài trăm cố vấn Mỹ, vài trăm triệu đô la viện trợ.

SỰ RỐI LOẠN Ở MIỀN NAM, SỰ CỦNG CỐ Ở MIỀN BẮC
Và quả thật, trong một khoảng thời gian sau 1954, canh bạc của Mỹ có vẻ đang thu lợi, ít nhất là trên bề mặt. Diệm hành động nhanh chóng để đè bẹp những đối thủ nội bộ và bắt đầu củng cố vị trí chính trị của ông ta. Ông được giúp đỡ bởi gần 1 triệu người di cư Công giáo từ miền Bắc vào miền Nam, những người được nói là đã “bỏ phiếu bằng đôi chân” cho tự do. Câu chuyện thực sự thì phức tạp hơn nhiều. Các quan chức Mỹ, được thuyết phục rằng một cuộc di cư khổng lồ ra khỏi miền Bắc vốn dưới sự kiểm soát của Việt Minh sẽ là một sự xấu hổ lớn cho Hồ Chí Minh, mới là những nhân tố chính trong việc này. Được khuyến khích bởi chức sắc Công giáo và tổ chức bởi nhóm cố vấn Edward Lansdale của Diệm, toàn bộ một vùng đã di chuyển xuống phía Nam, nhiều người đi bằng tàu thủy của Mỹ. Các thầy tu thuyết phục những người còn lưỡng lự bằng cách nói với họ rằng “Chúa đã vào Nam”, trong khi Lansdale hứa hẹn phần thưởng là 5 mẫu đất và 1 con bò cho những người chịu đi. Các đại diện của ông ta cũng phát tán những câu chuyện về các “trại tập trung” của Việt Minh và khả năng đánh bom nguyên tử miền Bắc của Mỹ.

Tất nhiên, nhiều người di cư là những người chống Cộng và họ lo sợ cho sự an nguy của họ ở miền Bắc. Nhưng, không có nghi ngờ gì cả, những chiến thuật của các tu sĩ và Lansdale mới là quyết định trong việc thuyết phục một số rất lớn những người khác đi theo. Dù sao đi nữa, thì chiến dịch cũng đã đạt được mục tiêu của nó. Một khi đã vào Nam, số người lánh nạn này đã trở thành một tài sản chính trị đáng kể cho Diệm, tạo thành một khối cử tri trung thành và chắc chắn. (để so sánh, có 120,000 người đã di cư từ Nam ra Bắc).
Việc một “chuyến bay đến tự do” đã xảy ra ở Việt Nam nhanh chóng được người Mỹ biết đến. Trong quyển sách bán chạy nhất của ông ta, Đưa tôi thoát khỏi ma quỷ, Tom Dooley, một bác sỹ hải quân Mỹ đã từng tham gia vào việc vận chuyển người vào Nam, đã đưa ra những cáo buộc khủng khiếp nhưng vô cớ chống lại chính quyền Hà Nội về những tội ác chống lại những người chạy trốn khỏi “sự vô thần khủng khiếp của Cộng sản”. Ông ta cũng phóng đại những việc làm tốt của Mỹ cũng như của bản thân ông ta về “Con đường đến Tự do”. Và bất cứ ai đọc sách của Dooley hay xem bộ phim chuyển thể từ quyển sách ấy cũng có thể thấy sự cống hiến toàn diện của Mỹ nhằm giúp Nam Việt Nam: “Chúng ta đã đến Việt Nam trễ, nhưng dù sao chúng ta cũng đã đến. Và chúng ta không mang đến súng đạn và bom, nhưng chúng ta mang đến giúp đỡ và lòng yêu thương.”
Sau khi củng cố quyền lực của ông ta đến một mức nhất định, Diệm đã gọi một cuộc tuyển cử vào năm 1955 để quyết định liệu miền Nam Việt Nam muốn một chính quyền quân chủ dưới triều Bảo Đại, hay là một nước Công hòa dưới triều của ông ta. Ông ta làm vậy vì Bảo Đại, người có mối quan hệ mật thiết với các phần tử tôn giáo chống lại ông ta, đã đề nghị Diệm từ chức. Trong 6 triệu người bỏ phiếu, có 99% ủng hộ Diệm. Ở Sài Gòn ông ta nhận được dư ra 200,000 phiếu so với số cử tri đăng kí. Sự gian lận bầu cử trắng trơn làm cho các quan chức Mỹ lo ngại (“Tất cả những gì ông cần là một đa số, chứ không phải là 99.99%”, Edward Lansdale đã tư vấn như thế trước khi bầu cử diễn ra), nhưng dù sau họ cũng ấn tượng với cách mà Diệm tăng cường sự trợ giúp. Thế là Việt Nam Cộng hòa (RVN) ra đời. Trong vòng hai năm sau đó, đã có những người nói về “sự kì diệu Diệm” ở miền Nam, và các quan chức Mỹ bắt đầu diễn thuyết đầy hi vọng về một Nam Việt Nam trở thành chuẩn mực cho chương trình viện trợ nước ngoài của Mỹ. Chuyến thăm Mỹ năm 1957 của Diệm đã đánh dấu một đỉnh cao trong sự nghiệp lãnh đạo của ông ta, và ông ta được tán dương không tiếc lời bởi những nhà lãnh đạo chính trị cũng như báo chí cho việc đạt được sự ổn định ở Nam Việt và phát triển kinh tế mạnh mẽ. Ông ta được vinh dự phát biểu trước Quốc hội Mỹ.
Thế nhưng, vẻ ngoài luôn luôn đánh lừa người xem. Khi ông ta đang củng cố địa vị của mình, Diệm đã loại trừ những nhóm quan trọng trong xã hội miền Nam Việt Nam với những chính sách ưu ái cho thiểu số Công giáo ở đây, và với việc Diệm từ chối theo đuổi một chương trình cải cách ruộng đất như ông ta đã hứa, điều mà có thể giúp ông ta có được sự ủng hộ của nông dân. Ở tỉnh Long An nằm sát Sài Gòn, có ít hơn 1,000 trong số 35,000 hộ dân được nhận lấy tài sản. Tệ hơn nữa, Diệm đã chuốc oán với nông dân khi bắt họ trả tiền cho phần ruộng mà họ đã được Việt Minh tặng không trong cuộc chiến chống Pháp. Những người Cộng sản đã khoét sâu vào chính sách áp bức này.
Tâm điểm của vấn đề của Diệm là khái niệm rất hạn hẹp của ông ta về cái gọi là lãnh đạo chính trị. Ông ta hoàn toàn không có khả năng thỏa hiệp, một vấn đề nhỏ ban đầu nhưng trở nên ngày càng phức tạp hơn trong những năm sắp tới. Nhằm triệt tiêu ảnh hưởng của các nhà hoạt động Việt Minh vẫn còn trong Nam, chính quyền Diệm đã tại ra những “nông điền”, di dời và tái định cư nông dân, qua đó chuốc thêm oán với họ. Quan trọng không kém, chương trình viện trợ của Mỹ, trong khi rất quan trọng để giúp cho Nam Việt sống sót, đã tạo ra một sự lệ thuộc hơn là đặt nền móng cho một quốc gia thực sự độc lập. Mỹ đã xây dựng một lâu đài trên cát. Chỉ cần Mỹ ngưng viện trợ là toàn bộ chính quyền và quân đội Nam Việt sẽ sụp đổ nhanh chóng. Cả Diệm lẫn nhà tài trợ Mỹ đều không nghĩ nhiều về việc khuyến khích dân chủ hay bất cứ hành động cải tổ chính trị nào. Trong khi các quan chức Mỹ lâu lâu lại đẩy Diệm đi theo hướng đó, nhà lãnh đạo Sài Gòn thường làm ngơ chúng, cho thấy sự ảnh hưởng rất hạn chế của Washington (một lần nữa, tương tự như những năm 1960). Đến cuối những năm 50, sự bất ổn ở miền Nam gia tăng nhanh chóng.
Những sự phát triển này cho thấy rằng cuộc “thử nghiệm Diệm” đã không thể tránh được thất bại ngay cả nếu như ông ta không phải đối mặt với một đối thủ sừng sỏ như Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Sự có mặt của Hồ Chí Minh đã làm cho cuộc chiến càng thêm không cân sức. Nhà lãnh đạo Hà Nội đã hành động cẩn trọng trong thời gian sau hội nghị Geneva, với những tôn trọng về vấn đề tái thống nhất. Biết rõ rằng Matxcơva hay Bắc Kinh đều không ủng hộ một chính sách gây hấn vì chúng có thể mang đến sự đối đầu trực tiếp với Mỹ, chính quyền miền Bắc cũng cố gắng không cho Mỹ bất cứ cớ nào để can thiệp. Một giải pháp Politburo đã được công bố vào đầu tháng 9-1954 (‘Tình thế mới, nhiệm vụ mới, chính sách mới’) đã kêu gọi sự chuyển đổi từ chiến tranh thành hòa bình, từ dùng vũ lực tái thống nhất đất nước thành xây dựng xã hội mới. Giải pháp này kêu gọi những người trong miền Nam cố gắng, hợp pháp hay bất hợp pháp, củng cố hòa bình và thực hiện Hiệp định Geneva. Chính sách này đã được thông qua tại kì họp Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam vào tháng 3-1955: các đại biểu đã chọn một chính sách làm mạnh VNDCCH trong khi phát động một cuộc chiến trên chính trường miền Nam và dùng ngoại giao để có được sự ủng hộ từ những người tiến bộ trên toàn thế giới.
Năm 1955, chính quyền Hà Nội phát động một cuộc cải cách ruộng đất lớn dưới sự kiểm soát của các cán bộ gửi đến bởi hội đồng cải cách ruộng đất trung ương. Những hướng dẫn cẩn thận được đảng cung cấp nhằm phân biệt giữa những người tư sản nhưng yêu nước hay phản bội, giữa những địa chủ sản xuất hiệu quả hay kém hiệu quả, nhưng những sự phân biệt này dần dần bị làm ngơ khi mà chiến dịch trở nên ngày càng cực đoan và đạt được quán tính riêng của nó. Nhưng người nông dân sợ bị truy tố nên đã đấu tố những người hàng xóm của họ, trong khi những người khác thì vu cáo địch thủ của họ những tội ác tưởng tượng. Bất cứ ai bị nghi ngờ làm việc cho Pháp đều có thể bị xử tử bởi tội “phản bội”, và có những người bị đấu tố vì đã không thể hiện đủ sự ủng hộ với Việt Minh.
Chính quyền Hà Nội chưa bao giờ công bố một con số chính thức cho những người đã bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất, nhưng đã có hàng ngàn người chết. Và hàng ngàn người khác bị đưa vào trại lao động cưỡng bức. Tháng 8-1956, ít lâu sau chiến dịch cải cách, Hồ Chí Minh đã công khai tuyên bố rằng “đã có sai lầm”, và ông hứa rằng những người bị quy kết sai lầm là địa chủ hay tư sản sẽ được trả lại công bằng. Những quan chức khác cũng phản ánh lại sự thừa nhận lỗi lầm này, nói rằng ngay cả những cựu chiến binh Việt Minh trung thành cũng đã bị vu cáo và xử tội.
Hàng ngàn người sống sót đã được thả về với làng của họ giữa những lời hô hào “quên đi và tha thứ”. Nhưng điều đó thật khó khăn. Sự căng thẳng vẫn tiếp tục. Những nạn nhân trả thù những người đã truy tố họ. Ở một vài vùng, nông dân từ chối tuân theo mệnh lệnh, và miền Bắc sa vào một bầu không khí nghi ngờ và e dè. Tờ báo chính thức của Hà Nội, Nhân Dân, đã mô tả rằng “anh em không dám thăm nhau, và người ta không dám chào hỏi nhau trên đường”. Lúc này thế giới đang tập trung vào sự nổi dậy của Hungary chống lại sự thống trị của Xôviết, nên đã không chú ý mấy đấy việc này. Tuy nhiên Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng uy tín lãnh đạo của ông đang trên bờ vực nên đã đưa vào những phương pháp tự do hơn nữa; tuy nhiên chúng vẫn chưa đủ để sửa lại những tổn thất. Võ Nguyên Giáp cũng đưa ra một lời thú tội tương tự. “Chúng tôi đã tấn công trên một mặt trận quá lớn, chúng tôi đã hoảng sợ khi thấy địch ở khắp nơi và sự sợ hãi đã lan đi khắp nơi. Tệ hơn nữa, tra tấn được xem như một hoạt động bình thường.”
Với sự kết thúc của Chiến dịch Cải cách ruộng đất, đời sống chính trị miền Bắc cũng đã lắng xuống. Nó lắng xuống để đợi cuộc tổng bầu cử toàn quốc trong Hiệp định Geneva, được sắp xếp vào năm 1956. Các quan chức Hà Nội định rằng họ sẽ tái thống nhất đất nước dưới quyền của họ, nhưng họ hi vọng rằng không phải làm vậy bằng những viên đạn mà bằng những lá phiếu, bằng con đường thắng lợi bầu cử.
Có phải là những lãnh đạo Hà Nội thực sự trông chờ vào một cuộc bầu cử diễn ra hay không? Đây là một vấn đề tranh cãi từ lâu, nhưng có vẻ như họ đã thực sự trông chờ. Họ tất nhiên hi vọng rằng sức ép từ đồng chủ tịch Hội nghị Geneva, Anh và LB Xôviết, và những quốc gia khác như Pháp, Trung Quốc, Canada và Ấn Độ, sẽ ép Sài Gòn và đồng minh Hòa Kì tổ chức một cuộc bầu cử. Ở Anh và Pháp, một vài quan chức bám vào một hi vọng từ lâu rằng bầu cử sẽ xảy ra, và ngay cả tại Hoa Kì những người quan sát cũng tin rằng cuộc bầu cử sẽ xảy ra dưới một hình thức nào đó; Hà Nội tất nhiên đã biết tất cả những ẩn ý này. Khi Diệm từ chối ngay cả một cuộc tư vấn kêu gọi tại Geneva vào hè 1955, những người lãnh đạo VNDCCH đã thất vọng.
Tuy nhiên, họ (VNDCCH) vẫn không chuẩn bị thay đổi chính sách “hai gọng kềm” của mình: củng cố sức mạnh ở miền Bắc và tìm cách tái thống nhất với miền Nam. Những quan chức Việt Minh ở miền Nam bắt đầu gây áp lực lên Hà Nội nhằm khiến họ làm nhiều hơn cho mục tiêu thứ hai. Vào năm 1956, Lê Duẩn, lãnh đạo cộng sản kì cựu ở miền Nam, đã ra một bản báo cáo dài về “Con đường Cách mạng ở miền Nam”; bản này kêu gọi các cán bộ ở miền Nam chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh chính trị lâu dài trong khi khuyến nghị miền Bắc rằng sẽ có lúc phải dùng đến sức mạnh quân sự. Hà Nội trả lời dè dặt. Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông đang làm việc hết mình cho việc xây dựng đất nước ở miền Bắc và không có mong muốn chọc giận Hoa Kì, nhất là khi Xôviết và Trung Quốc đã cho thấy họ không ủng hộ mấy với chuyện tái thống nhất đất nước một cách nhanh chóng. Chính quyền Matxcơva dưới thời Nikita Khrushchev ủng hộ “song song tồn tại hòa bình” với các nước phương Tây; trong khi Trung Quốc đang phải dành hết tâm trí cho việc phát triển quốc gia và không mong muốn có thêm một cuộc chiến “kiểu Hàn” chống lại Mỹ nữa. Xôviết thậm chí còn đề nghị vào năm 1957 rằng cả 2 quốc gia Nam và Bắc Việt Nam đều được gia nhập vào Liên Hiệp Quốc, tức là thừa nhận phần nào sự chia cắt vĩnh viễn 2 miền đất nước.
Tuy nhiên, sau một thời gian thì các nhà lãnh đạo Hà Nội đã thay đổi chính kiến của họ và chọn cách khuyến khích và tiếp tế cho phong trào cách mạng đang lên ở miền Nam. Quyết định chính đến vào năm 1959. Sau khi nhận thấy rằng những nhà cách mạng ở miền Nam đang tuyệt vọng chờ giúp đỡ, cũng như sự áp bức của Diệm đã tạo ra một bầu không khí tốt cho cuộc khởi nghĩa, vào mùa xuân 1959 Đảng đã cho phép quay trở lại phương pháp đấu tranh vũ trang và có những hành động chủ động để giúp đỡ đấu tranh. Cùng với một số phương pháp khác, các nhà lãnh đạo đã thành lập một đội chuyên nhiệm nhằm tạo ra một thứ mà sau này sẽ được cả thế giới biết đến với cái tên Đường mòn Hồ Chí Minh, một con đường đâm sâu vào lãnh thổ Nam Việt hàng trăm dặm để vận chuyển người và tiếp viện cho miền Nam, qua Lào. Từng đoạn của con đường dần dần được nới rộng, và xe đạp được đưa vào vận chuyển. Với khung gia cố, những chiếc xe đạp này có thể tải được 220 đến 330 pound (100-150 kg), đôi khi có những chiếc tải đển hơn 700 pound (300 kg). Trên con đường này, những người vận chuyển mỗi ngày đi được trung bình 6 dặm, tức là họ cần đến hơn một tháng để có thể vào Nam Việt Nam.
Hà Nội cũng gửi vào Nam nhiều người Việt Minh đã ra bắc sau Geneva, và hướng dẫn họ sử dụng vũ lực để bảo vệ họ và hoạt động để lật đổ chính quyền Sài Gòn. Vào tháng 9-1960, Hội nghị Đảng lần thứ 3 đã chính thức chấp thuận đấu tranh vũ trang, đưa việc giải phóng miền Nam thành một ưu tiên ngang hàng với củng cố miền Bắc. Và vào tháng 12-1960, dưới sự chỉ đạo của Hà Nội, những nhà cách mạng miền Nam đã thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (NLF), một tổ chức quần chúng lãnh đạo bởi những nhà cộng sản nhưng tập họp tất cả những ai không bị ảnh hưởng bởi Diệm bằng cách hứa hẹn cải cách toàn diện và thành lập sự độc lập thực thụ.
Ở đây là một trong những vấn đề cốt lõi cho những cuộc tranh cãi sau này về việc quy kết trách nhiệm cho ai trong chiến tranh Việt Nam. Có phải cuộc nổi dậy ở Nam Việt những năm 1959-1960 xảy ra bởi vì những cuộc bạo loạn vốn có ở miền Nam mà không cần hoặc cần rất ít sự can thiệp từ miền Bắc, hay là sự thành lập của NLF chính là giai đoạn mở đầu của một cuộc chiến vũ trang từ Hà Nội? Nói cách khác, liệu cuộc chiến này, tận gốc, là một cuộc nội chiến giữa hai thế lực thù địch lẫn nhau ở miền Nam, hay đây là một cuộc ngoại xâm? Những câu trả lời trái ngược nhau trong những năm sau này đã gây ra sự chia rẽ sâu sắc ở Hoa Kì và trong bất cứ quốc gia nào quan tâm đến cuộc chiến. Những người chỉ trích sự tham gia của chính quyền Mỹ thường tranh cãi quyết liệt cho lập trường thứ nhất, tức là đây là một cuộc chiến xảy ra vì Hà Nội đã có nguồn gốc căn bản ở miền Nam; trong khi các quan chức Mỹ và những người ủng hộ họ thì ủng hộ lập trường thứ hai, rằng cuộc chiến này ngay từ đầu đã là một cuộc chiến chống lại miền Nam, được khởi nguồn và chỉ huy từ Hà Nội.
Ai là người nói đúng? Không ai cả, và cả hai. Hà Nội, rõ ràng, có một vai trò tích cực trong việc gia tăng xung đột ở miền Nam; nếu không có sự can thiệp của miền Bắc, rõ ràng những người khởi nghĩa ở miền Nam đã chẳng thể đánh bại một chính quyền Sài Gòn có sự viện trợ của Mỹ. Tuy nhiên, không nghi ngờ gì rằng sự chống đối ở miền Nam đối với chính quyền Sài Gòn là rất sâu sắc, và nếu không có sự chống đối này thì dù chính quyền VNDCCH có gây áp lực đến đâu đi nữa thì cũng sẽ chẳng có cuộc khởi nghĩa nào xảy ra. Nhưng một học giả đã tổng kết rằng, “nó là một cuộc khởi nghĩa được truyền lửa bởi những tình hình địa phương ở miền Nam, nhưng lãnh đạo và chỉ hướng bởi miền Bắc”.
Đối với một số người, tranh cãi về vai trò của miền Bắc trong cuộc chiến này là vô nghĩa, bởi vì Hiệp định Geneva bằng giấy trắng mực đen đã xác nhận rằng Việt Nam là một quốc gia duy nhất, mặc dù có bị tạm thời chia cắt bở vĩ tuyết 17. Thế nên, khi chiến quyền Diệm từ chối tổ chức họp bàn về bầu cử tái thống nhất, Hà Nội không có trách nhiệm phải tuân theo những điều khoản của hiệp định nữa. Đối với những nhà lãnh đạo VNDCCH, Việt Nam luôn luôn là một quốc gia duy nhất, và bất cứ phương pháp nào có thể mang lại sự thống nhất đất nước sẽ là phương pháp đúng đắn chung cuộc.
Dù sao đi nữa, thì cũng đã có một điều không thể xoay ngược lại: từ cuối năm 1960, một cuộc khởi nghĩa rộng lớn đã xảy ra ở Nam Việt Nam. VNCH của Ngô Đình Diệm sắp phải đối mặt với bài kiểm tra khó khăn nhất của nó. Và tại Washington, một bộ máy điều hành mới chuần bị lên nắm quyền lực.

MỘT BỘ MÁY MỚI Ở WASHINGTON
Vai trò của John F. Kennedy (JFK) ở Việt Nam là một trong những khía cạnh gây tranh cãi nhất về hình ảnh công chúng của ông. Điều này một phần bởi vì những quyết định chính sách quan trọng đã được thông qua trong 1000 ngày ở Nhà Trắng của ông, và một phần bởi vì cái chết của ông bởi viên đạn của một tên sát thủ vào tháng 11-1963 đã được theo sát phía sau bởi một cuộc đảo chánh chống lại Ngô Đình Diệm, được tài trợ bởi Mỹ. Tất nhiên cũng còn một yếu tố nữa thêm lửa cho sự tranh cãi này: sự đột ngột của cái chết Kennedy. Nhiều người ủng hộ Kennedy tin rằng ông đã, vào thời điểm đó, có ý định rút quân khỏi Việt Nam, hoặc là ngay trong một thời gian rất gần, hoặc là sau cuộc bầu cử 1964. Người theo lập trường này nổi tiếng nhất là nhà làm phim Oliver Stone, người đã làm bộ phim JFK mà trong đó chính lập trường rút quân của Kennedy đã khiến ông bị ám sát.

Không khó để nhìn ra mục đích chủ yếu của những người hâm mộ JFK này: họ muốn bảo vệ Kennedy khỏi thảm họa ở Đông Nam Á. Và thật sự, hồ sơ về những gì Kennedy làm ở Việt Nam đủ mập mờ và phức tạp để họ có thể nói như thế và thuyết phục nhiều nhà quan sát độc lập rằng ông ta (JFK) sẽ làm khác đi với người tiền nhiệm của ông ta. Hồ sơ này ghi nhận những sự từ chối lặp đi lặp lại những cơ hội giải quyết vấn đề bằng chính trị cùng với những lần phủ quyết những kế hoạch tham gia sâu hơn vào chiến tranh Việt Nam của Mỹ.
Những người Kennedy chọn làm cố vấn ngoại giao sẽ là những nhân vật chính trong những quyết định về Việt Nam, cả trước và sau khi cái chết của JFK. Đó là một bộ ba đáng nể. Kennedy đã chọn Dean Rusk, từng là một học giả của Rhodes và là chủ tịch của Rockefeller Foundation, đứng đầu Bộ Ngoại giao. Robert McNamara, từng là giáo sư của Đại học Kinh tế Harvard, rời việc làm bấy giờ của ông ta là chủ tịch công ty Ford để trở thành Thư kí Bộ Quốc phòng, và McGeorge Bundy, một giáo sư 41 tuổi ở Harvard, cũng được chọn trở thành trợ lí đặc biệt cho Kennedy trong Cơ quan An ninh quốc gia Hoa Kì. Trong vòng 4 năm sau đó, khi mà Việt Nam càng ngày càng trở thành mối quan tâm đối ngoại hàng đầu, ba người này sẽ là trung tâm của các chính sách, cho đến tận năm 1965 khi mà họ giúp biến Việt Nam thành một cuộc chiến của Mỹ. Qua 4 năm đó, ba người này sẽ cố vấn chống lại việc tìm kiếm một giải pháp ngoại giao cho cuộc chiến (mặc dù McNamara, đến lúc cuối, có vẻ thoải mái với ý tưởng này hơn là hai người kia).
Nỗ lực đáng chú ý đầu tiên nhằm chuyển cuộc chiến ở Việt Nam từ chiến trường lên bàn thương lượng đến từ sau khi Kennedy đồng ý một việc tương tự ở Lào – quốc gia hẹp nằm trong đất liền, giữa Thái Lan và Việt Nam. Sự kết hợp giữa trợ giúp kinh tế và gửi cố vấn từ sau năm 1954 đã không thể củng cố sự thống trị theo phương Tây ở nơi này, và có khả năng sẽ thất bại ngay tức thời trước phe được cộng sản chống lưng, Pathet Lào. Dwight Eisenhower, trong một cuộc họp ngay trước ngày Kennedy làm lễ nhậm chức, đã nhấn mạnh sự quan trọng chiến lược của Lào, gọi nó (Lào) là chìa khóa đến toàn Đông Nam Á và rõ ràng đã cảnh báo JFK rằng nếu Lào thất thủ thì Hoa Kì sẽ phải “xóa hết khu vực”. Ông ta (Eisenhower) mong muốn một giải pháp qua thương lượng, nhưng hoàn toàn bác bỏ khả năng trung lập. “Nó sẽ là một cú chí mạng”, Eisenhower nói với Kennedy, “với chúng ta, nếu chúng ta để những người cộng sản lọt vào chính quyền Lào”.
Trong những tháng sau đó, một vài cố vấn cao nhất của Kennedy cũng đã nói vọng lại lời cảnh báo của Eisenhower và đề nghị can thiệp bằng quân đội, tuy nhiên JFK chẳng bao giờ chấp thuận cả. Ông ta (JFK) có một sự nghi ngờ mãnh liệt đối với địa hình trắc trở của Lào; về sự thiếu ủng hộ của công chúng đối với một sự gắn kết lâu dài vào Lào; về sự thiếu một “lối thoát” cho bất cứ sự can thiệp lâu dài nào vào Lào. Đến đầu mùa xuân, ông ta đã quyết định rằng ông sẽ theo đuổi một giải pháp đàm phán, ngay cả nếu như những người trong nước chỉ trích ông ta là kẻ nhân nhượng.
Những đồng minh chính của Mỹ đóng vai trò trong quyết định này. Họ tin rằng lợi ích của phương Tây ở Lào là nhỏ, nếu không nói là không có. Trong cuộc viếng thăm Hoa Kì mùa xuân 1961, Thủ tướng Anh Harold macmillan đã lưu ý Kennedy không nên can dự sâu hơn nữa vào một nơi rất khó phòng thủ và không quan trọng đối với an ninh của phương Tây (như Lào). Trong một cuộc thảo luận trên một chiếc du thuyền xuôi dòng Potomac, Macmillan từ chối đổ tài nguyên quý giá của Anh quốc vào Lào, nhất là vào việc phòng thủ cho một quân đội không tự đứng vững khi chiến đấu được; khi chiếc thuyền đi ngang một đội đua thuyền của một đại học địa phương, Macmillan đã hỏi: “Chúng ta có cái gì đây? Thủy quân Lào đấy chăng?”
Pháp cũng đặt câu hỏi với ý tưởng nỗ lực nhằm đảm bảo một quốc gia Lào thân Mỹ. Khi Kennedy thăm Paris vào tháng Năm, de Gaulle bảo với ông ta rằng Pháp sẽ không ủng hộ một cuộc can thiệp quân sự phương Tây vào quốc gia đó (Lào). Kinh nghiệm của Pháp trong khu vực đã chỉ rõ rằng hành động quân sự sẽ không bao giờ đạt được kết quả lâu dài, và vì thế giải pháp tốt nhất với vấn đề Lào là trung lập hóa. Kennedy trả lời rằng ít nhất cũng cần phải có sự đe dọa can thiệp quân sự từ Mỹ, nhưng de Gaulle cũng không đồng ý. “Đối với ngài mà nói, thì sự can thiệp vào khu vực này sẽ là một vũng lầy không có hồi kết”, de Gaulle đã nói như vậy. Lòng yêu nước luôn luôn tỏ ra mạnh hơn bất cứ sức mạnh ngoại bang nào, kinh nghiệm của người Pháp cho thấy như thế. Lời của de Gaulle này rõ ràng đã gây ấn tượng cho Kennedy. Khi Tướng Maxwell D. Taylor và Walt W. Rostow của Hội đồng An ninh Quốc gia hối thúc Kennedy can thiệp với lực lượng Mỹ nếu như phe cộng sản Lào tấn công trở lại, Kennedy ngay lập tức từ chối, trả lời rằng de Gaulle đã “nói bằng cảm nhận về những khó khăn trong chiến tranh ở khu vực này của thế giới.”
Kennedy, vì thế, chọn bỏ qua lời khuyên của Eisenhower và bước qua Lào. Trong tháng 5, ông ta báo với London rằng Hoa Kì sẽ ủng hộ một cuộc thảo luận Xô-Anh nhằm khởi động một hội nghị Geneva về Lào về việc thương thảo sắp đặt giữa các quân đội thân Mỹ, thân cộng và trung lập đang nắm giữ quyền lực ở Lào. Kennedy chỉ định một nhà thương thuyết thời vụ là W. Averell harriman làm người đại diện cho Mỹ. Tháng thứ 13 của cuộc thương thuyết đã mang đến một sự đồng thuận rằng lựa chọn duy nhất có khả năng thành công là một chính phủ mà phe thân cộng Pathet Lào và phe trung lập có một vị trí tương xứng với quyền lực thật sự của họ. Bản thỏa thuận cuối cùng, kí vào tháng 7-1962, đã tạo ra một nước Lào “trung lập và độc lập”, lãnh đạo bởi một chính phủ liên hiệp dưới trào thủ tướng trung lập Souvanna Phouma, nhưng trong đó có sự chia sẻ quyền lực với Pathet Lào.
Tình hình thực tế ở Lào khiến cho lựa chọn tốt duy nhất là một vụ dàn xếp bằng thương lượng, nhưng một khi dùng giải pháp này Kennedy biết rằng ông ta sẽ bị phe Cộng hòa chỉ trích rằng ông ta đang “làm mất” Đông Nam Á, cũng như Truman đã “làm mất” Trung Quốc. Ông ta cảm thấy tự tin rằng bộ máy điều hành của ông đang đi theo con đường đúng nhất có thể, nhưng ông vẫn sợ rằng đồng ý cho Pathet Lào quyền lực sẽ bị gọi là một thất bại thứ hai (sau vụ thảm bại ở Vịnh Con Heo – Bay of Pigs – năm 1961, khi mà một nhóm lưu vong người Cuba có vũ trang được Mỹ huấn luyện cố gắng đảo chính chính phủ Fidel Castro) vào tay phe Cộng sản. Một thất bại thứ 3 như thế sẽ là một thảm họa về mặt chính trị, Kennedy tin như thế, khi mà ông ta nói với Đại sứ Mỹ ở Ấn Độ, John Kennet Galbraith: “Có một giới hạn nhất định về số phi vụ mà một người có thể làm được trong một năm với cộng sản mà vẫn sống sót trên chiến trường… Chúng ta đơn giản chỉ là không thể có thêm một thất bại nữa ở Việt Nam”.
Nhưng không phải chỉ có những vấn đề chính trị nội bộ mới làm Kennedy bận tâm; những yếu tố quốc tế cũng rất quan trọng. Kennedy nhìn nhận nội chiến Lào như là một phần của một cuộc Chiến tranh Lạnh lớn hơn, và ông ta thấy diễn văn của Nikita Khrushchev vào tháng 1-1961 về việc ủng hộ những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc như là một lời thách thức đến Hoa Kì hơn là một câu trả lời với lời tuyên bố của Trung Quốc về việc họ là nhà quán quân thực thụ của cách mạng ở các nước thứ ba. Khrushchev càng làm Kennedy thêm khó xử khi vào năm 1961, ông này tăng cường vận chuyển bằng đường hàng không đến những người cách mạng ở Lào và Côngô, cũng như tăng cường viện trợ đến Castro và Bắc Việt. Như thể vậy còn chưa đủ, Khrushchev còn đe dọa chắn Berlin lại một lần nữa. Vào tháng 10, ngay trước khi khủng hoảng Berlin kết thúc, Kennedy nói với Arthur Krock của tờ New York Times rằng “cái lưu ý quái quỷ đó… ông ta phải giải quyết vấn đề Berlin trong khi những người Cộng sản khuyến khích những kẻ nổi dậy ở khắp nơi… Việt Nam, Lào chẳng hạn”.
Hiệp định Lào, vì thế, chỉ khiến Kennedy và các cố vấn chính của ông ta càng nghiêng về một giải pháp quân sự hơn là một giải pháp thương thuyết ở Việt Nam – ít nhất là trong một tương lai thấy được. Họ sớm bắt đầu quân sự hóa sự can thiệp của Hoa Kì mà Eisenhower đã khởi xướng. Eisenhower vốn luôn sẵn sàng phá vỡ các yếu tố chính trị của Hiệp định Geneva 1954 ngay khi nó vừa được kí kết, nhưng ông ấy đã nhường nhịn với những quy ước quân sự, gồm cả việc giới hạn số lượng cố vấn quân sự Mỹ ở mức 685 người như đã quy ước ở Geneva. Kennedy có ít băn khoăn hơn về việc vi phạm nhiều phần chính của hiệp định Geneva, và cho đến khi bị ám sát, số cố vấn quân sự của Mỹ ở Việt Nam đã là hơn 16,000. Nhiều người được giao nhiệm vụ đi kèm theo, đôi khi lãnh đạo, quân đội Nam Việt trên chiến trường. Cần phải nhắc rằng Kennedy đã cưỡng lại sức ép từ quân đội Mỹ và nhiều nhà cố vấn kì cựu của ông về việc đưa lục quân chính thức vào Việt Nam, và ông đã làm hệt như thế trong suốt nhiệm kì còn lại của ông ta. Dù sao đi nữa, ông ta đã thiết lập một sự hiện diện quân sự đáng kể ở Việt Nam, và khi làm vậy, ông đã khởi động một quá trình thu hẹp những lựa chọn của chính ông và những người kế nhiệm ông.
Tất nhiên, Kennedy và cố vấn của ông ta cho rằng những lựa chọn của họ vốn đã hẹp ngay từ năm 1961. Thư kí Liên bang Dean Rusk đại diện cho cách nhìn của bộ máy điều hành khi bảo với Andrei Gromyko trong buổi thương thuyết với Lào rằng cả Xôviết và Bắc Việt không bao giờ được quên rằng Hoa Kì đã “tận tụy với Nam Việt và sẽ không chấp nhận sự hủy diệt của nó (Nam Việt)”. Tuy nhiên, thực sự thì chính quyền Eisenhower đã không chính thức đưa Kennedy vào tình thế phải bảo vệ Nam Việt. Hiệp định SEATO, như ta đã thấy, chỉ quy định các quốc gia thành viên phải tư vấn lẫn nhau. Hơn nữa, vào tháng 10-1954 Eisenhower đã nói rõ rằng một phần lớn viện trợ của Hoa Kì đến Nam Việt còn phụ thuộc vào “những cải cách cần thiết” của Diệm, và nói chung là cho Nam Việt nhiều dân chủ hơn. Đến năm 1960-61, ở Sài Gòn nhiều người, gồm cả Elbridge Durbrow, đại sứ Mỹ, đã tranh luận rằng những yêu cầu này đã không đạt được. Chính sách của Eisenhower với Nam Việt đã cho Kennedy nhiều lựa chọn hơn là ủng hộ chính quyền Diệm, nhưng ông ta (Kennedy) đã quyết tâm giữ Nam Việt khỏi bàn tay của Cộng sản; và ông ta xem Diệm là phương tiện tốt nhất để đạt được điều đó.


SỰ SỤP ĐỔ CỦA QUYẾT ĐỊNH NĂM 1961
Như Jean Lacouture đã viết, sau khi Kennedy chọn “Tách biệt hai vấn đề của Đông Dương, hòa bình ở Lào và cố gắng thắng cuộc chiến ở Việt Nam”. Vào tháng 5-1961 ông chấp thuận lời khuyến nghị tăng cường quân đội của chế đội Sài Gòn (QLVNCH – ARVN) thêm 20,000 người, và gửi thêm 100 cố vấn Mỹ nữa đến Việt Nam, nâng tổng số lên 800. Nhiều người nữa sẽ đến vào mùa hè. Nhưng những điều này chẳng giúp ích được gì cho tình hình bấy giờ. Đến mùa thu năm đó, chính quyền Diệm đã gặp phải rắc rối lớn. Lượng người đăng kí tham gia Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (NLF) tăng lên chóng mặt trong mùa hè, và vào đầu thu Việt Cộng (tên gọi của những người lính du kích của NLF) hoạt động mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trước đó, họ đã chiếm quyền kiểm soát nhiều ngôi làng trong nhiều vùng ở miền Nam Việt Nam. Kết quả là rối loạn chính trị ngày càng tăng ở miền Nam, và chẳng bất ngờ gì khi vào tháng 9 Diệm đề nghị khẩn cấp thêm viện trợ kinh tế. Đến đầu tháng 10, cả JSC (Joint Chief of Staffs) và NSC đều nghiêng về sự lựa chọn đưa một lực lượng chiến đấu đáng kể của Mỹ vào Việt Nam.
Kennedy vẫn còn nghi ngờ. Ông không hề muốn gửi quân Mỹ đến lục địa châu Á. Ông ta đã một lần cảnh báo chống lại một lời đề nghị như thế vào năm 1954, và ông ta đã kẹt vào vị thế đó kể từ đó. Bây giờ, ông bày tỏ mối nghi ngờ với một nhóm phóng viên rằng Mỹ cần phải can thiệp vào những “sự phiền phức dân sự” gây ra bởi lính du kích, thêm vào rằng “khó mà chứng minh rằng đấy không phải là tình hình bấy giờ ở Việt Nam.” Đấy chính là vấn đề khó xử của Kennedy: ông không muốn mở rộng sự can thiệp quân sự của Mỹ, nhưng ông cũng sợ một sự xuống dốc về quân sự và chính trị ở Nam Việt Nam. Vào tháng 10 ông gửi một nhóm đứng đầu bởi cố vấn quân sự riêng của ông, Tướng Maxwell D. Taylor, đến Việt Nam nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quát về chiến tranh và cân nhắc các lựa chọn của Hoa Kì, bao gồm cả đưa lực lượng chiến đấu đến.
Nhiệm vụ của Taylor là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong cả thời kì Kennedy, và những gì nó mang lại cung cấp năng lượng cho cả phe chống và phe thuận đối với việc tăng cường hoạt động quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Những thành viên chủ yếu của nhiệm vụ này là Taylor và cố vấn Nhà Trắng, Walt Rostow, cả hai đều không giấu gì tư tưởng diều hâu của họ trong chiến tranh. Trong suốt chuyến đi 2 tuần họ nhận thấy tình hình chính trị và quân sự ở Nam Việt là tuyệt vọng, và họ đề nghị một loạt các giải pháp mà Hoa Kì cần phải làm để ngăn ngừa tình hình xấu thêm. Cụ thể là, tổng thống phải duyệt chương trình luyện tập và trang bị cho Civil Guard (Dân phòng) và Self-Defense Corps (Lực lượng tự vệ) để giảm gánh nặng cho quân lực VNCH các nhiệm vụ tĩnh, và điều thêm một số trực thăng Mỹ và các chuyên cơ nhẹ nhằm tăng sự cơ động cho ARVN trong các chiến dịch tiến công.
Quan trọng hơn, trong một ghi nhớ cho Kennedy, Taylor đề nghị một đợt điều quân 8000 người đến Nam Việt Nam. Nhiệm vụ được nêu ra của đơn vị này sẽ là giúp sửa chữa những thiệt hại gây ra bởi lũ lụt tại đồng bằng SCL. Tuy nhiên dưới vỏ bọc hoạt động nhân đạo, kỹ thuật và y tế đó, bộ binh Mỹ đã thực hiện nhiều chiến dịch chiến đấu chống lại Việt Cộng. Taylor tranh luận rằng sự có mặt của quân đội Mỹ sẽ tăng khí thế của ARVN và thể hiện giải pháp chống lại Cộng sản ở Đông Nam Á của Hoa Kì.
Tại Washington, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara và JCS từ chối lời đề nghị của Taylor, nói rằng nó không thỏa đáng. Họ bảo, chỉ 8000 quân lính Mỹ ở Việt Nam thì “có thể không thay đổi được cán cân sức mạnh và chúng ta gần như chắc chắn sẽ bị sa lầy trong một cuộc chiến dùng dằng”. Để chứng tỏ rằng “chúng tôi nói chuyện nghiêm túc”, họ hối thúc sử dụng 6 sư đoàn, tức khoảng 200,000 người. Quan chức NSC là Robert Komer cũng đồng ý với một sự can thiệp quân sự dứt khoát và ngay lập tức. Komer viết “Đúng, chúng ta có thể kết thúc với một Hàn Quốc khác, nhưng tôi nghĩ rằng cách tốt nhất để tránh việc này là hành động nhanh trước khi cuộc chiến mở rộng đến mức một sự can thiệp kiểu Hàn Quốc nữa trở thành sự thực.”
Không phải ai cũng hung hăng như vậy. Quả vậy, trong thời kì quan trọng này, Kennedy đã có được một loạt các lựa chọn rộng từ các cố vấn. Trong một ghi nhớ mật cho Kennedy vào tháng 11, Harriman, trưởng đoàn thương thuyết với Lào (sau này trở thành phụ tá cho Bộ Ngoại giao cho các vụ việc Viễn Đông), thúc giục một giải pháp ngoại giao cho Việt Nam dựa trên Hiệp định Geneva 1954, với lập luận rằng triều Diệm là “áp bức, độc tài và không được lòng dân”. Harriman lập luận rằng Xôviết muốn ổn định hóa tình hình ở Đông Nam Á, và đề nghị rằng nên giảm sự hiện diện quân sự ở Nam Việt Nam khi mà hòa bình được lặp lại ở khu vực này. Đổi lại, Bắc Việt và NLF sẽ đồng ý ngưng bắn, chấp nhận một Hội đồng Kiểm soát từ Liên Hiệp Quốc, và đạt sự tái thống nhất sau cùng qua tổng bầu cử. Harriman tổng kết, Hoa Kì không nên “đặt cược uy thế của mình vào Việt Nam”, một điểm cũng được John Kenneth Galbraith lưu ý với Kennedy.
Phó Bộ trưởng Ngoại giao, Chester Bowles, thậm chí còn cương quyết hơn. Ông ta đã thúc giục Kennedy trong hàng tháng trời nên xem xét áp dụng khả năng trung lập hóa của Lào sang toàn Đông Nam Á, và ông ta tin rằng nếu các khuyến nghị của Taylor được chấp nhận thì Hoa Kì sẽ “đâm thẳng vào một ngõ cụt”, và “bước một bước dài đến một cuộc chiến toàn cục không thể lường trước được”. Tương tự, Abram Chayes, tư vấn pháp lí của Bộ Ngoại giao, tấn công lời đề nghị của Taylor như là chỉ tập trung vào “các phương pháp quân sự và bán quân sự”, và đề nghị Kennedy tìm kiếm một giải pháp thương lượng.
Geogre Ball, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao phụ trách kinh tế và sau này sẽ thay Bowles làm Phó Bộ trưởng Ngoại giao, gặp Kennedy vào ngày 7-11 và tiên đoán rằng bản báo cáo của Taylor sẽ gây ra “những tình huống bi kịch nhất” nếu được làm theo. Ball khẳng định rằng địa chất Việt Nam là “hoàn toàn không phù hợp với các lực lượng Hoa Kì”, và lập luận rằng uy thế của Hoa Kì chắc chắn sẽ chịu ảnh hưởng nếu Hoa Kì dính líu quá sâu vào vụ này. Nói về kế hoạch của Taylor, Ball tiên đoán: “Nếu chúng ta đi theo con đường đó, chúng ta có thể đưa vào những cánh đồng lúa và rừng rậm của Việt Nam 300,000 người lính trong vòng 5 năm, và sẽ không bao giờ tìm thấy họ”. Tóm lại, đề nghị của Taylor là một “sự can thiệp bằng con người không có giới hạn” và dựa trên một lời đề nghị “điên rồ”. Ball nói với Kennedy rằng ông ta tốt nhất nên “cực kì cẩn thận là hơn”.
Nhưng cả Ball lẫn những người chủ trương đàm phán khác đều bị phớt lờ. Mặc dù mỗi người đều có thể truyền hết những linh cảm xấu của họ cho Kennedy, nhưng họ hiểu rằng những người thân cận nhất của tổng thống lúc đó không hỏi rằng liệu có nên hay không, mà họ chỉ hỏi làm thế nào để sử dụng tài nguyên của Hoa Kì mà thôi. Cả Robert McNamara và McGeorge Bundy đều ủng hộ một sự can thiệp sâu hơn của Hoa Kì nhằm đảm bảo sự sống sót của chế độ Nam Việt Nam phi cộng sản, với cả lục quân Hoa Kì nếu cần. Dean Rusk thì do dự hơn trong việc triển khai quân đội và cũng cảnh giác về việc “đặt cược to vào một con ngựa đang thua thế”. Nhưng ông ta cũng mong muốn đứng vững ở Việt Nam và chống lại những người muốn bắt đầu thương thảo. Quan trọng hơn, chính Kennedy cũng hồ nghi về việc đó (thương thảo). Khi nghe lời tiên đoán của Ball vào ngày 7-11, ông chỉ cười và nói “Chà, George, anh đáng lí phải là kẻ thông minh nhất ở đây, nhưng anh thật là khùng. Chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra đâu”.

UY TÍN KHÔNG THỂ TRỐN TRÁNH
Thế là, nhưng người ủng hộ một giải pháp thương lượng phải hoạt động từ một khoảng cách rất xa. Như Abram Chayes sau này đã nói, họ đại diện cho “tất cả những người không có quyền lực trong Bộ Ngoại giao”, với kết quả là “sẽ không bao giờ thành công đâu”. Trong tâm trí vẫn còn in những chướng ngại từ vụ Vịnh Con Lợn (Bay of Pigs) và ở Viênna, cũng như hồi hộp về những chỉ trích của phe bảo thủ về việc thương thuyết ở Lào và việc xử lí vụ khủng hoảng Berlinm Kennedy và các cố vấn lo rằng điều này (vụ Việt Nam) có thể ảnh hưởng đến lời hứa của chính quyền về việc phát động Chiến tranh Lạnh một cách mạnh mẽ. Sau khi rời văn phòng, Eisenhower đã hứa theo sát chính sách đối ngoại của Kennedy, và trong suốt năm 1961 phe Cộng hòa và Dân chủ cánh hữu đã cáo buộc chính quyền yếu kém và thiếu cương quyết. Kennedy sợ rằng một quyết định thương thuyết với Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến uy tín của ông ta và sẽ gây ra một cuộc tấn công chính trị trong nước giống như vụ mà Harry Truman phải hứng chịu sau sự “sụp đổ của Trung Quốc” hơn chục năm trước.

Nhưng không phải chỉ có vấn đề uy tín trong nước mới làm Kennedy băn khoăn. Có thể trong suy nghĩ của ông ta, Việt Nam có ảnh hưởng mạnh mẽ đến vị thế quốc tế của Hoa Kì. Kennedy cho rằng cần thiết phải chứng tỏ uy tín lời hứa của Hoa Kì, để có thể thuyết phục cả thù lẫn bạn sự cương quyết, chắc chắn và đáng tin cậy của Hoa Kì. Kennedy nói với Rusk và McNamara rằng những hành động của Hoa Kì hồi giữa tháng Mười một sẽ “giúp kiểm tra cả 2 phía của Bức màn Thép (Iron Curtain)… như là một thước đo cho ý định và sự cương quyết của bộ máy cầm quyền”, và nếu họ chọn thương thuyết thì điều đó sẽ “bị đánh giá còn yếu hơn hồi ở Lào” và sẽ gây ra “một sự khủng hoảng tinh thần” trên toàn Đông Nam Á. Tương tự, một bản báo cáo của Rusk-McNamara cũng trong tháng đó cảnh báo rằng “Sự đánh mất Nam Việt Nam sẽ làm tổn hại nặng đến uy tín của Hoa Kì ở những nơi khác”.
“Thuyết uy tín” này đến mùa thu 1961 đã thay thế thuyết domino trong cách nghĩ của Hoa Kì về Việt Nam, hay ít nhất thay đổi cách mà thuyết domino hình thành. Các quan chức chính quyền của Kennedy ít quan tâm hơn về việc nếu một quốc gia rơi vào tay cộng sản sẽ gây nguy hiểm đến các quốc gia lân cận so với những người tiền nhiệm; họ ít tin tưởng vào cái lí thuyết có thể gọi là “thuyết đôminô khủng bố” hơn. Thật vậy, Kennedy và các cố vấn đã làm theo những gì được Johnathan Schell và những người khác gọi là “thuyết đôminô tâm lí”; họ sợ rằng sự sụp đổ của một quốc gia sẽ làm cho các quốc gia khác trên thế giới, chỉ qua quan sát, mất niềm tin vào sức mạnh của Hoa Kì. Schell viết “Theo lối suy nghĩ này, Việt Nam trở thành một “trường hợp thử nghiệm” cho sự sẵn sàng dùng sức mạnh Hoa Kì trong các vụ việc quốc tế. Nếu như Hoa Kì không thể quyết đoán giành chiến thắng ở Việt Nam, người ta sẽ nghĩ rằng nó (Hoa Kì) thiếu quyết đoán để giành lấy chiến thắng trong các xung đột ở bất cứ nơi nào khác.”
Nếu Hoa Kì từ chối thương thuyết ở Việt Nam vào mùa thu 1961, thì ông ta cũng từ chối đi xa như bản báo cáo của Taylor đề nghị. Ông có chấp thuận tăng cường viện trợ kinh tế và quân sự cho chính quyền Diệm, và ông duyệt gửi hai đại đội trực thăng trang bị đầy đủ và tăng số cố vấn quân sự. Nhưng ông cũng chấp nhận luận điểm của cố vấn như Rusk và McNamara rằng sự triển khai quân chiến đấu sẽ phá hủy cuộc thương lượng ở Lào và leo thang chiến tranh ở Việt Nam. Những người cố vấn cũng cảnh báo tổng thống rằng nếu như 8000 lính mà vẫn không đủ, Washington sẽ phải đối mặt với một lựa chọn còn khó khăn hơn: gửi thêm lính, hay rút lui hoàn toàn. “Nếu chúng ta gửi 6-8,000 lính rồi kéo họ ra khỏi chiến trường khi mọi thứ trở nên tồi tệ, chúng ta sẽ thua ở Việt Nam và có thể là toàn Đông Nam Á”, một quan chức NSC đã cảnh báo như thế. Và tổng thống đồng ý. Ít nhất là trong một vài tháng tới, sẽ không có đơn vị chiến đấu nào được gửi đi.
Với những quyết định vào tháng 11-1961 như thế, Kennedy từ chối các giải pháp thương lượng hòa bình hay gửi quân tham chiến, và thay vào đó, chọn một giải pháp trung dung là tăng viện trợ và cố vấn quân sự. Ông hiểu rằng, những bước này tự chúng không thể đủ để cứu lấy Nam Việt Nam, nhưng ông vẫn chọn vì ông hiểu rằng chúng cho ông thêm thời gian: chúng cho phép ông tự do tăng hay giảm sự dính líu của quân đội Mỹ. Điều mà ông không hiểu được là ngay cả một sự tăng cường khá nhỏ của Mỹ vào Nam Việt cũng làm cho việc giảm dính líu khó khăn hơn. Bằng việc tăng số cố vấn Mỹ lên 3,000 (gấp 4 lần lượng cho phép bởi HIệp định Geneva), và bằng việc cho phép họ tham gia các chiến dịch, Kennedy đã đặt cược lớn hơn vào Việt Nam.

THÀNH QUẢ KHÔNG BỀN: 1962
Trong một khoảng thời gian, chiến lược này có vẻ có hiệu quả. Sự kết hợp giữa viện trợ Mỹ và các cố vấn vào cuối 1961 cho một kết quả ngay lập tức nhưng tạm thời trong cuộc chiến chống lại Việt Cộng. Những chiếc trực thăng tăng cường sự cơ động của quân đội Diệm lên rất nhiều, cho phép họ nhảy cóc và bao vây các cánh quân của NLF. Việc sử dụng napalm, một dạng ga jelly có thể đốt sâu vào trong da, cũng mang lại kết quả. Tướng Paul Harkins, đứng đầu Bộ Chỉ huy Trợ giúp Quân đội, Việt Nam (MACV-Military Assistance Command, Vietnam) ca rằng napalm “đã đưa nỗi sợ Chúa lên Việt Cộng… và đó là những gì cần thiết”.
Chính quyền cũng thực hiện chương trình “ấp chiến lược”, được đề nghị cho Diệm bởi chuyên gia chống bạo động người Anh Robert G. K. Thompson và được thiết kế nhằm ngăn cách và bảo vệ những người nông dân khỏi Việt Cộng. Ý tưởng thật thẳng thắn: nếu Việt Cộng không vào được các ngôi làng, những nơi cung cấp cho họ thức ăn, tin tức tình báo và nhân sự, thì họ sẽ không thể nào chiến đấu được. Và làm sao để ngăn Việt Cộng vào các ngôi làng? Qua việc chuyển dời toàn bộ các ngôi làng vào những vùng được xem là an toàn nơi mà chính quyền Sài Gòn sẽ cung cấp thức ăn, nhà ở, các dịch vụ giáo dục và các dịch vụ khác. Theo lập luận này, kết quả là nông dân sẽ xem chính quyền miền Nam như là một lực lượng thân thiện và có khả năng. Diệm, biết rõ ông ta không được lòng dân ở vùng nông thôn, đã theo kế hoạch của Thompson và cho Ngô Đình Nhu theo dõi việc xây dựng các ấp chiến lược này.
Tất cả đều có vẻ hứa hẹn, và nửa năm đầu 1962 đã thấy được nhiều biểu hiện tự tin của các quan chức kì cựu Mỹ rằng cuộc chiến đang dần chiến thắng. Sự lạc quan này là thiếu cơ sở. Về quân sự, ARVN có thể đã chiếm được lợi thế trước mắt, nhưng điều này ít có ý nghĩa, bởi căn cứ Việt Cộng vẫn còn gần như không thể tìm thấy được giữa những khu rừng đầm lầy rậm rạp ở miền Nam. Quân du kích thường xuyên chỉ việc đợi cho quân đội chính quyền rời khỏi khu vực chiếm đóng rồi chiếm lại. Quan trọng hơn, chiến dịch tiến công của Mỹ-Diệm năm 1962 chẳng làm được gì để bật rễ cuộc cách mạng chống lại chính quyền Sài Gòn ở vùng nông thôn. Chương trình ấp chiến lược chỉ càng làm cho nông dân ghét chính quyền Diệm hơn – đa số người dân căm ghét việc phải rời bỏ vùng đất mà gia đình họ sống trên đó nhiều thế hệ. Chỉ một số ít ấp có các dịch vụ công ích, cũng như chỉ có một số ít là an toàn khỏi các cuộc đột nhập. Nhiều ấp thiếu vắng những người trẻ tuổi một cách bất thường, bởi vì họ đã tham gia Việt Cộng. Hơn nữa, những quỹ tài chính dùng để cung cấp cho nông dân thường xuyên đi vào túi riêng những quan chức của Diệm. Càng ngày càng nhiều nông dân từ chối trả thuế đất và nhiều người chọn quay lại với NLF cùng với chiến dịch cải cách đất đai và chống Diệm triệt để của họ.
Những vấn đề căn bản trong nỗ lực chiến tranh này không bị những người ủng hộ giải pháp thương lượng bỏ sót. Một vài quan chức hạng trung, gồm có Chester Bowles và John Kenneth Galbraith, nói rằng Diệm là một nước đi thất bại và hối thúc Kennedy nghiêm túc xem xét việc theo đuổi một giải pháp chính trị, nhưng họ gặp phải sự chống đối cứng rắn. JCS cảnh báo rằng “bất cứ sự đảo ngược chính sách nào của Mỹ cũng đều có tác dụng thảm họa, không chỉ với mối quan hệ giữa chúng ta và Nam Việt Nam, mà còn với tất cả các đồng minh châu Á và trên thế giới khác của chúng ta.” Họ nhắc với McNamara sự kiên quyết của Kennedy chống lại Việt Cộng, và thúc giục rằng “chính sách hiện nay của Mỹ với Nam Việt Nam, như đã được thông báo bởi tổng thống, phải theo đuổi quyết liệt đến một kết quả thành công.” McNamara không đợi phải thuyết phục, và viên cố vấn kì cựu của ông ta, McGeorge Bundy và Dean Rusk, cũng tương tự tiếp tục ủng hộ kiên trì trong nỗ lực chiến tranh.
Kennedy thì dè dặt hơn, và ông ta, tiếp tục trong năm 1962, thể hiện một sự mâu thuẫn tư tưởng về Việt Nam như hồi năm 1961. Một mặt, ông bảo Averell Harriman và viên chức NSC Michael Forrestal rằng ông thông cảm với mối quan tâm của Galbraith, và rằng Hoa Kì nên “chuẩn bị chớp lấy bất cứ khoảnh khắc có lợi nào để giảm sự có mặt của chúng ta (ở Nam Việt), và nên biết rằng khoảnh khắc đó rất có thể là khá gần”. Mặt khác, ông bảo riêng với Dean Rusk và nói công khai với các nhà báo Mỹ rằng Hoa Kì không nên mỏi mệt với sự cống hiến của nó vào Nam Việt Nam. Có vẻ như, ít nhất trong một thời gian, Kennedy nghĩ rằng ông có thể dung hòa hai mục tiêu dường như đối lập nhau – nói cách khác, rằng ông có thể đạt được một giải pháp chấp nhận được có thể đảm bảo hãm chân được những người Cộng sản đồng thời cho phép Mỹ rút lui. Sự lạc quan của JFK đủ mạnh để, vào tháng Bảy, ông hỏi McNamara bắt đầu một kế hoạch rút lui từng phần những cố vấn Mỹ khỏi Nam Việt nam, nhưng ông làm thế bởi vì những dấu hiệu của một thành công từ Sài Gòn. Kế hoạch này, thực hiện vào tháng 7-1962, sẽ bắt đầu vào cuối năm 1963 và tiếp tục trong một vài năm, nếu như cuộc chiến vẫn theo chiều hướng tốt đẹp.
Trong suốt mùa hè và vào mùa thu, các quan chức Mỹ ở Sài Gòn tiếp tục tô hồng bức tranh chiến tranh. Cụ thể, tướng Harkins gửi về những bản báo cáo chi tiết vẽ ra những chiến thắng nối tiếp chiến thắng trong những chiến dịch chống Việt Cộng. Harkins tin tưởng rằng giải pháp cho vụ bạo động chủ yếu phải là quân sự chứ không phải chính trị; sự lạc quan này hoàn toàn có thể giải thích được – về mặt quân sự mà nói thì cuộc chiến đã diễn ra tương đối tốt cho đến cuối năm 1962, mặc dù Việt Cộng tiếp tục né tránh những cuộc đụng độ lớn và dần dần giỏi hơn trong việc bắn hạ những chiếc trực thăng vô cùng quý giá. Tuy nhiên, trên mặt trận chính trị, mặt trận bao gồm chiến thắng “con tim và tâm trí” của người dân Nam Việt Nam, mùa thu ấy tiếp tục chứng kiến thắng lợi của NLF.
Vị trí thống trị trên chiến trường được khẳng định rõ ràng vào tháng 1-1963, trong một cuộc chiến lớn giữa các đại đội Việt Cộng và ARVN gần làng Ấp Bắc. Một cố vấn Mỹ, viên Trung tá huyền thoại John Paul Vann, hối thúc chỉ huy đơn vị ARVN của ông ta tấn công quân du kích tập trung ở gần làng. Vann được thỏa mãn yêu cầu, nhưng kết quả lại hoàn toàn khác với những gì ông ta trông đơi. Mặc dù đông hơn quân địch 10-chọi-1 và có lợi thế áp đảo về vũ khí, ARVN đã không chiếm lấy quyền kiểm soát trận đánh, và không chịu rời khỏi sự bảo vệ của những chiếc xe bọc thép chuyên chở của họ. Trận chiến kết thúc chẳng vẻ vang gì, khi mà quân lực ARVN bắn lẫn nhau và các toán quân du kích trốn thoát. Phe ARVN tổn thất 61 người và 100 người bị thương, trong khi phe Việt Cộng chỉ chết có 3 người.
Đối với nhiều nhà báo Mỹ ở miền Nam Việt Nam, Ấp Bắc khẳng định một điều mà họ đã nghi ngờ hàng tháng: cuộc chiến thực sự đang diễn ra tệ hại. Những nhà báo trẻ như Neil Sheehan của United Press International và David Halberstam của New York Times, mặc dù ủng hộ chính sách của Mỹ, đã càng ngày càng dè dặt hơn đối với những tuyên bố lạc quan từ trung tâm của Harkins từ mùa thu 1962; bây giờ ARVN lại hứng chịu một thất bại nặng nề dưới tay một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều. Điều này đặt ra rất nhiều câu hỏi lớn về tình trạng của cuộc chiến và về những tuyên bố về cuộc chiến, những câu hỏi này sẽ xuất hiện với tần số ngày càng dày đặc trên các tờ báo Mỹ.

MÙA HÈ KHÔNG HÀI LÒNG
Nếu Kennedy tìm kiếm cho một giải pháp giữ thể diện và an toàn chính trị trong nước nhằm ra khỏi Việt Nam, thì Diệm và Ngô Đình Nhu lại cho ông ta một cái cớ như thế trong mùa xuân và hè 1963 bằng một loạt các cuộc tấn công vào những Phật tử. Trong ý thức của mình, Diệm đã xem những người di dân Thiên Chúa giáo từ miền Bắc vào là cốt lõi của hệ thống của ông ta, và chính quyền ông ta đã từ chối các Phật tử - những người chiếm đến 80% dân số - các quyền bình đẳng vào công việc và dịch vụ chính phủ. Việc chọc giận Phật tử này tăng lên nhanh chóng vào các năm 1962-63, và nó bùng nổ vào ngày 8-5-1963 khi quân đội của Diệm nổ súng vào một đám đông Phật tử đang ăn mừng ngày Phật đản bằng cách treo cờ Phật giáo – luật của chính quyền Diệm cấm bất cứ cờ xí nào ngoại trừ cờ chính quyền. Nhiều tuần sau đó, trong các thành phố trọng yếu ở miền Nam, sinh viên đổ ra đường để ủng hộ Phật giáo chống lại phân biệt đối xử. Nhu, càng ngày càng có quyền lực hơn trong chính quyền và là kẻ chủ mưu đằng sau vụ bạo động tháng 5, đã đối phó bằng những đợt càn quét vào các chùa chiền, bắt bớ có hệ thống, và dùng luật rừng, tất cả đều bị phản ứng lại bằng nhiều cuộc diễu hành và tự thiêu hơn nữa. Đó là một chu trình tự lặp lại trong những tháng sau đó.
Các quan chức Mỹ cảm thấy khó chịu và bực mình với hành động đàn áp và với sự đồng ý ngầm của Nhu. Sự tức giận của họ càng tăng lên khi bà vợ xa hoa của ông ta, Madame Nhu, công khai và trơ trẽn tuyên bố rằng những vụ tự thiêu là “thịt nướng” và đề nghị tặng thêm xăng và diêm quẹt cho những vụ khác. Mà không phải chỉ có những chiến lược dã man của Nhu với Phật tử mới làm các quan chức Mỹ đau đầu. Đáng ngại không kém là những báo cáo về việc Nhu có thể đang tìm kiếm một cuộc thương lượng với Hà Nội. Trong vài tháng, Nhu đã vài dịp phàn nàn về việc có quá nhiều người Mỹ ở Nam Việt Nam, rằng người Mỹ sẽ không bao giờ hiểu được lối sống của người Việt Nam, và rằng sẽ tốt hơn nếu một nửa số người Mỹ ở Việt Nam về nhà. Vào tháng 7 và 8 năm 1963, ông ta lại lặp lại những tuyên bố này và nói với vài người rằng công ta đã bắt đầu liên lạc với đại diện của VNDCCH.
Ví dụ, vào ngày 10-08, trong những cuộc nói chuyện với các nhà ngoại giao Anh quốc, Nhu đã nói về việc gặp gỡ thường xuyên với những thành viên của thế hệ “Điện Biên Phủ” ở Bắc Việt. Có một số đáng kể những cá nhân yêu nước ở Hà Nội vốn là những người yêu nước trước và sau đó trở thành cộng sản, Nhu nói, những người ở vào độ tuổi 40 và chiến đấu chống lại người Pháp, sau đó tự nhiên sẽ trở thành phe của Hồ Chí Minh vì ông ta (Hồ Chí Minh) cung cấp được lực lượng và tổ chức để mang lại độc lập. Đó là những người chính đáng tìm kiếm một giải pháp Việt Nam cho vấn đề Việt Nam và, Nhu thêm vào, “tôi có một số trong đó đang ngồi ở phòng này”.
Những tuyên bố của Nhu về sự hiện hữu của các mối liên lạc Bắc-Nam càng đáng tin hơn khi người ta nghĩ về việc một trong những mối quan tâm của Bắc Việt quả là tìm hiểu về suy nghĩ của người lãnh đạo ở chính quyền phía Nam. Những chứng cứ có sẵn cho thấy rằng trong giai đoạn này, Hà Nội đang rất mong muốn tìm kiếm một giải pháp thương lượng cho cuộc chiến này. Tại vài thời điểm vào năm 1962 và 1963, các quan chức Bắc Việt đã thể hiện hi vọng về một giải pháp như thế.
Vì sao? Rõ ràng họ đã lí luận rằng, mặc dù Washington muốn can thiệp vào Việt Nam sâu hơn là Lào, nhưng chính quyền vẫn còn chần chừ chưa can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến chống lại Việt Cộng. Kennedy, do đó, có thể sẵn sàng chấp nhận một giải pháp ngoại giao, mặc dù nó thật sự là một thất bại trá hình. Một giải pháp như thế sẽ cho phép Hà Nội đạt được một trong những mục tiêu cốt lõi của họ - tránh một cuộc đối đầu quân sự trực tiếp với Mỹ - và thỏa mãn những yêu cầu từ cả Bắc Kinh và Matxcơva rằng cuộc đối đầu sẽ không đi quá đà. Vào tháng 7-1962, Lê Duẩn đã hướng dẫn các lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa miền Nam tránh một sự leo thang chiến tranh bằng cách giữ các cuộc đụng độ chỉ ở vùng núi và nông thôn Nam Việt (những cuộc tấn công trực diện vào thành phố có thể mang đến việc Mỹ can thiệp trực tiếp vào chiến tranh ) và tìm cách thương thuyết cho một giải pháp thương lượng và sự rút quân của Mỹ.
Ngay cả khi Hà Nội đang mong ước cho một giải pháp chính trị, thì các quan chức của họ vẫn không sẵn sàng hoạt động tích cực lắm cho điều đó. Đến giữa năm 1963 Hà Nội đã có thể thỏa mãn về những thành công vang dội của cuộc nổi loạn ở miền Nam và những vấn đề ngập đầu của chính quyền Diệm. Hơn nữa, họ (Hà Nội) cũng không muốn cô lập hàng xóm phía bắc hùng mạnh của họ, Trung Quốc, bằng cách tỏ ra quá mong muốn đạt một thỏa thuận với một Nam Việt đang được Mỹ tài trợ. Những phát biểu công khai của họ năm 1963 thường lặp lại lời của Trung Quốc trong cuộc tranh cãi Trung-Xô – tức là, như một người Marxist-Leninist tốt, họ tuyên bố rằng Xôviết dưới thời Nikita Khrushchev đã chuyển từ ý thức thuần sang ủng hộ “chủ nghĩa xét lại” ở Yugoslavia và theo đổi “cùng tồn tại hòa bình” và “hòa bình thế giới”.

Fredrik Logevall (Đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt)
_____________________________________________________________________________




No comments:

Post a Comment